Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |
Mục 3: Vọng tưởng thành tựu Tứ trí và Pháp giới trí ở Phật địa bằng pháp tà dâm -2 |
Như vậy, những thứ mà Mật tông dựa vào Minh thể để nói, để tu, để chứng và lập riêng “thức thứ chín Như Lai Tạng” có bản chất là Tâm giác tri Lạc Minh vô niệm để rao giảng, tu hành và chứng đắc, tất thảy đều là phi Phật pháp, hoàn toàn không liên quan gì đến Thức thứ tám Như Lai Tạng của Thực Tướng tâm, vì không chứng được Như Lai Tạng thức. Nếu những gì họ tu và chứng đều không phải là Bản thể Như Lai Tạng, thì những gì họ nói về chứng đắc Tứ trí, Ngũ trí, chuyển Thức thành Trí vân vân đều là thuyết hư vọng, ức tưởng, suy đoán, tuyệt đối không có thực nghĩa. Lại nữa, pháp mà Thượng sư Trần Kiện Dân nói trong đoạn văn này còn có rất nhiều, nhưng vì chương tiết có hạn, không thể nói từng thứ một được. Ở đây chỉ nêu ra mà tạm thời không luận nữa. Ngũ trí của Mật tông là thứ chứng được từ dâm lạc của Song thân pháp. Tông Khách Ba cũng nói như vậy, ngay từ đầu đã không có ý khác rồi: “Để hiểu Minh Phi Bát Nhã (vì Minh Phi có nữ âm có thể giúp người ta chứng được đạo lý thành Phật Lạc Không song vận, cho nên gọi là Minh Phi Bát Nhã) là phương tiện chính viên mãn tối thắng vô lậu, thì người sơ phát nghiệp và trí tăng tiến vị mà các chữ đó hàm nhiếp đều không nên xả bỏ (hành giả Mật tông mới phát Sự nghiệp Thủ ấn và “hành giả trí tăng tiến vị” do các chữ Phạn kia quán tưởng hàm nhiếp trong đó đều không nên xả bỏ Minh Phi), cho nên truyền Minh Phi cấm hành (vì thế mà truyền trao các cấm hành Minh Phi: Nếu người nào rời bỏ Minh Phi, không thực hiện Song thân pháp Sự nghiệp Thủ ấn thì tức là vi phạm giới Tam muội da)… Để chuyên tu Ngũ trí tự tính Bồ Đề tâm hành, cho nên truyền Kim Cương cấm hành, đến cuối cùng cũng không được lìa bỏ (để làm cho chuyên tu Ngũ trí tự tính Bồ Đề tâm hành, cho nên truyền dạy cấm hành Kim Cương cho nữ hành giả: Đến chung cuộc cũng không được rời bỏ Kim Cương Dũng Phụ - không được từ bỏ nam hành giả Mật tông). Nếu lìa bỏ các hành, cũng không thể chứng được Bồ Đề tâm đó, vì để tu học mà truyền hành cấm hành. Ở đây có ba loại: Loại hành thứ nhất … (tu quán tưởng Minh điểm…, câu văn dài nên không chép lại). Loại hành thứ hai, thụ trì năm loại trang nghiêm, là từ Cụ túc cấm hành với Du già mẫu (từ Cụ túc trì và Cụ túc tu cấm hành với Minh Phi trong Song thân pháp), dẫn phát ra Ngũ trí như Tịnh pháp giới. Loại hành thứ ba, nếu được sức mạnh bốn loại thần thông hiện pháp, vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, lìa Du già sư hoặc Du già mẫu ở thế gian, nhờ tu tất thảy nội trang nghiêm lực (nhờ tu tất thảy nội trang nghiêm lực trong Song thân pháp), sinh ra Đại Bồ Đề Tâm bi không vô biệt”. (21-418~419) Ý mà Tông Khách Ba nói về chứng đắc Bát Nhã ở đây là nam hành giả Mật tông phải dựa vào Minh Phi (nữ hành giả Mật tông thì dựa vào Kim Cương Dũng Phụ), tu Song thân pháp để chứng. Nếu người nào làm trái ngược với đạo lý này mà tu Bát Nhã, thì tức là làm trái với giới luật của Mật tông, cho nên mới truyền thụ Minh Phi cấm hành. Đối với nữ hành giả Mật tông, thì truyền thụ Kim Cương cấm hành: bắt buộc phải dựa vào Kim Cương Dũng Phụ để tu hành, tất cả đều không được phép tu trí tuệ Bát Nhã ngoài Song thân pháp, cho nên ông ta mới nói rằng: “Để chuyên tu Ngũ trí tự tính Bồ Đề tâm hành, cho nên truyền Kim Cương cấm hành, đến cuối cùng cũng không được lìa bỏ”. Ý nói hành giả Mật tông không được phép từ bỏ Song thân pháp để tu Bát Nhã. Câu “Loại hành thứ hai, thụ trì năm loại trang nghiêm, là từ Cụ túc cấm hành với Du già mẫu, dẫn phát ra Ngũ trí như Tịnh pháp giới” mà Tông Khách Ba nói là chỉ việc phải dựa vào Minh Phi để tu Song thân pháp, thăng hoa tịnh phần của tinh dịch trong cơn cực khoái tình dục, coi đó là chủng tử thanh tịnh, cho nên gọi là dẫn phát Tịnh pháp giới (vì Mật tông nói tinh dịch chính là chủng tử sinh ra chúng sinh, tức là chủng tử Pháp giới của chúng sinh; “Giới” ở đây chính là tên gọi khác của chủng tử); nhờ vào việc dẫn phát Pháp giới thanh tịnh mà chứng được Ngũ trí. Mật tông dựa vào hư vọng tưởng tà dâm đó để bày đặt ra cấm hành, dụ lệnh cho đệ tử Mật tông không được tu chứng Bát Nhã bên ngoài Song thân pháp, bắt buộc đệ tử của mình không được tu hành mà giải đãi (lười biếng) với Song thân pháp, mong muốn dựa vào Song thân pháp này để tu chứng Ngũ trí của Mật tông. Thế nhưng, thực tế thì Tứ trí của Phật và Pháp giới Thể tính trí mà Bồ Tát thất trụ vị chứng được kia đều được sinh ra sau khi đích thân hành giả chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng, hoàn toàn không phải nhờ tu học Minh thể và “trí tuệ” như Lạc Không bất nhị của Song thân pháp dâm lạc mới được sinh khởi, vì Minh thể và “tính không duy danh” của dâm xúc thực chất không liên quan gì đến trí tuệ Bát Nhã; bởi tu nó cũng hoàn toàn không thể nào sinh khởi được trí tuệ Bát Nhã; vì “Bát Nhã tuệ, Tứ trí, Ngũ trí” trong Song thân pháp của Mật tông đều không phải là Tứ trí và trí tuệ Thể tính Pháp giới mà Phật đã tuyên thuyết. Đâu chỉ có Tông Khách Ba của Hoàng giáo nói như vậy, mà Thượng sư Trần Kiện Dân của Bạch giáo cũng nói như thế, cho rằng phải “tu chứng Ngũ trí” trong dâm lạc Song thân pháp giống với chủ trương của Tông Khách Ba: “Vì Vô lậu thông mà Phật bất cộng (không cùng có), và các thần biến thông lực dưới đó dễ dành được, tất phải dùng thực thể Minh ấn (bắt buộc phải sử dụng Minh Phi thực thể để hành Sự nghiệp Thủ ấn). Do vận hành trí tuệ khí mà khai mở Trung mạch trên thực tu song vận (do có hai người song vận hợp tu mà vận hành Minh điểm trí tuệ khí mà khai mở Trung mạch), nên thực chứng được quang minh Pháp thân trong Như Lai Tạng, có đầy đủ Tha tâm thông và Vô lậu thông bất cộng…Lại khiến cho trí tuệ Minh điểm nhập vào trụ ở Trung mạch, từ dưới lên trên, lần lượt khai mở sáu luân, mỗi lần khai mở một luân đều có công đức đặc biệt. Điều lệ như sau: A. Mật luân khai mở, có thể thấy Câu sinh trí, thông đạt kiến đạo thắng nghĩa, thực chứng được công đức của Sơ địa và Nhị địa. Về khí, thì Phong đại đắc tự tại, chân nhanh thân nhẹ, rơi xuống đất nhẹ như bông. Về tâm, thì đắc Thành sở tác trí. B. Tề luân khai mở: Thông đạt tất thảy mọi lời Phật, mười hai phân giáo mà Phật nói đều hiểu biết mà không chướng ngại, thực chứng công đức của Tam địa và Tứ địa. Về khí, thì Địa đại đắc tự tại, có đủ thần lực hiểu biết Na Thự Diễn Na. Về tâm, đắc Bình đẳng tính trí. C. Tâm luân khai mở: Đắc Pháp thân Phật, trí lực tăng quảng, quang minh hiển hiện, không phân biệt trong ngoài, thông đạt Tu đạo trí, thực chứng công đức của Ngũ địa và Lục địa. Về khí, thì Không đại được tự tại, bay đến Không tế không có chướng ngại. Về tâm, đắc Pháp giới Thể tính trí. D. Hầu luân khai mở: Đắc Báo thân Phật, tất thảy mọi giáo hóa biện chứng đều tự tại, thông hiểu ngôn ngữ các nước mười phương, thực chứng công đức của Thất địa và Bát địa. Về khí, thì Hỏa đại đắc tự tại, xuống nước không chìm, có thể hòa tàn tất thảy mọi vật chất. Về tâm, đắc Diệu quan sát trí. E. Đỉnh luân khai mở: Chứng Vô học đạo, quang minh địa đạo nhất thời viên mãn. Về khí, thì Thủy đạo đắc tự tại, có thể vào lửa không cháy, thân mềm trơn bóng. Về tâm, đắc Đại viên kính trí. F. Đỉnh kế luân khai mở: Trong sát na, viên chứng được Phổ Hiền Như Lai vị từ xưa đến nay, hiển hiện quang minh đại quán đỉnh ở Quả vị, đó là mục đích cuối cùng của quán đỉnh, hiện chứng Vô thượng trí, cũng có được Địa thứ mười một và Địa thứ mười hai”. (33-412~414) Nói như trên nghĩa là: Dựa vào Minh Phi thực thể (người thật), qua quá trình hai người nam nữ hợp tu Song thân pháp, hai căn giao hợp sinh ra dâm lạc, để tu chứng thông đạt Lục luân trong Minh điểm Trung mạch (từ dưới hạ thể Liên hoa luân lên trên, lần lượt là Tề luân, Tâm luân, Hầu luân, Mi luân, Đỉnh kế luân), từ đó sinh ra các loại “công đức”, rồi thực chứng quả vị “chư địa” và “Pháp thân, Báo thân, Phật vị cứu cánh”… Cũng dựa vào pháp hành dâm song thân, tu thông đạt Minh điểm thăng giáng (lên xuống) trong Trung mạch, phối với tu chứng Ngũ trí ở Phật địa. Thế nhưng, những lời nói trên lại tự mâu thuẫn với nhau: Đã nói Thành sở tác trí chỉ có Phật mới chứng được, thì không nên nói: “Sơ địa chứng được Thành (sở tác) trí”. Đã nói Pháp giới Thể tính trí là “trí tuệ do Đại Tỳ Lô Giá Na Phật chứng được” sau khi đã chứng Tứ trí ở Phật địa, thì không nên nói rằng: “Ngũ địa, Lục địa chứng được Pháp giới Thể tính trí”. Nói như vậy, đâu chỉ có trước sau tự mâu thuẫn mà còn trái với những gì Phật thuyết, không phải là Phật pháp thực sự. Những gì mà Thượng sư Trần Kiện Dân nói lại còn trái ngược với cả lời lẽ hai vị Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn nói trên mạng. Trần Kiện Dân nói Pháp giới Thể tính trí đã phát khởi ở Nhân địa rồi, tức là khi “Minh điểm trí tuệ” chạy đến Tâm luân lúc hợp tu Song thân pháp thì đã sinh ra “Pháp giới Thể tính trí”, sau đó thăng đến Hầu luân, Mi luân thì sinh ra Diệu quan sát trí và Đại viên kính trí, hoàn toàn không giống như hai vị Trần, Đinh nói: “Sau khi hoàn thành Tứ trí thì mới chứng Pháp giới Thể tính trí”. Cho nên, những gì mà các thượng sư Mật tông nói đều mâu thuẫn với mình, với người, khiến cho hành giả Mật tông chẳng biết đằng nào mà lần. Nên biết rằng, muốn đạt được Đại viên kính trí và Thành sở tác trí viên mãn, thì phải dựa vào sự tu chứng viên mãn của Diệu quan sát trí và Bình đẳng tính trí mới có được, mà hai trí “Diệu quan sát và Bình đẳng tính” phải dựa vào chứng đắc Pháp giới Thể tính trí thì mới có thể hiện khởi. Nếu không thể chứng được trí tuệ thể tính của Pháp giới thì mãi mãi không thể nào sinh khởi Diệu quan sát trí. Không thể phát khởi Diệu quan sát trí thì không thể sinh ra Bình đẳng tính trí, vì Bình đẳng tính trí không thể sinh mà không có nguyên nhân. Thế nhưng, nếu người học không thể biết được cội nguồn Pháp giới của hữu tình ở đâu, thì làm sao có được trí tuệ thể tính của Pháp giới? Tuyệt không thể có cái lý đó! Vì sao vậy? Vì tính tổng thể của Pháp giới của tất cả hữu tình đều trực tiếp hoặc gián tiếp phát sinh từ Thức thứ tám Như Lai Tạng cội nguồn của vạn pháp. Tất cả mọi người học sau khi chứng được Tâm Thức thứ tám, liền có thể hiện tiền quan sát cội nguồn Pháp giới của hữu tình nằm ở đâu. Từ sự hiện quan đó mà sinh ra Diệu quan sát trí, không phải là thứ mà phàm phu và những kẻ ngu hữu học, vô học trong Nhị thừa có thể quan sát được, cho nên mới gọi là “Diệu”. Thông qua sự hiện quan của Diệu quan sát trí mà có thể đích thân nhìn thấy lý thể pháp vốn bình đẳng của tất cả hữu tình, vì ai nấy đều có Thức thứ tám, mà Thức thứ tám này của mỗi chúng sinh đều là thể tính đồng nhất bình đẳng, không vì chuyện đã ngộ hay chưa ngộ mà có sự khác biệt. Nhờ có hai trí tuệ Diệu quan sát và Bình đẳng tính này thì mới dần dần tiến tu Nhất thiết Chủng trí và tu trừ tính chướng…tiến vào Sơ địa, phân chứng ngũ phần Pháp thân mà dần trừ tập khí…, cho đến Phật địa cứu cánh thì đắc Đại viên kính trí và Thành sở tác trí sinh ra lập tức. Qua chính lý (đạo lý đúng đắn) này, cần hiểu rằng tất cả những người học muốn thành Phật đạo, trước hết buộc phải chứng Pháp giới Thể tính trí, vì Pháp giới Thể tính trí là nền móng của Nhất thiết Chủng trí Phật Bồ Đề, là trí tuệ mà người minh tâm chứng ngộ đích thân chứng được; mà Pháp giới Thể tính trí do người minh tâm chứng ngộ đó chỉ là Tổng tướng trí Bát Nhã của Bồ Tát thất trụ vị; tất cả các Bồ Tát khi chứng được Pháp giới Thể tính trí đều chưa thể hiểu được Nhất thiết Chủng trí, còn phải theo bậc đại thiện tri thức tu học Biệt tướng trí và Nhất thiết Chủng trí nữa. Đó là cảnh giới Bát Nhã mà tất cả các Bồ Tát thất trụ vị chứng ngộ Tổng tướng trí Bát Nhã cùng an trú, cũng là chính lý mà tất cả các Bồ Tát tiến tu Nhất thiết Chủng trí sau khi chứng ngộ đều hiểu rõ. Cho nên, pháp Ngũ trí mà Mật tông nói đều là pháp nói từ vọng tưởng tự ý, không chỉ mâu thuẫn với chính tông phái mình mà còn trái ngược với những gì mà Phật Đà tuyên thuyết, không đúng với Thánh giáo lượng, không phải là chính pháp mà Phật đã giảng trong các kinh. Những gì mà các thượng sư Mật tông nói đó không chỉ dẫn dắt sai lầm chúng sinh rơi vào trong hý luận, mà còn hoàn toàn vô ích trong tu chứng Phật pháp, vì hoàn toàn không liên quan gì đến đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề trong tu chứng Phật pháp mà Phật đã dạy chúng ta.
Lượt xem trang: 35529 |
Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |