The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 6: Chứng lượng vô ngã bằng ức tưởng của Mật tông

 Tiết 6: Chứng lượng vô ngã bằng ức tưởng của Mật tông

Người Mật tông mỗi lần nghĩ đến Vô ngã là nói mình đã chứng được Vô ngã: “Vô ngã có hai loại: Thứ nhất, chúng sinh Vô ngã; thứ hai: tất thảy pháp Vô ngã. Nếu muốn tu Vô ngã, trước hết nghĩ ta chết vô thường. Nếu có thể nghĩ ta chết vô thường đến mức độ thấu triệt, thì Ngã chấp tự bị phá. Nhưng trước khi đến Phật địa thì đều không thể hoàn toàn Vô ngã tâm, đủ thấy Ngã chấp không dễ gì bị phá. Hành giả nên quán tưởng tất thảy pháp và tất thảy chúng sinh tự tính vốn dĩ Không, thì Chân Ngã ở đâu mà có? Ta còn không thật, mà lại luận hình tướng? Có thể thấy phàm tất cả những gì có hình tướng đều là hư vọng[1]. Xưa đại sư Liên Hoa Sinh nói: “tất thảy pháp Không, tất thảy chúng sinh Vô ngã”. Các vị Phật từ xưa đến nay, không ai là không nói như vậy. Nhưng vì chúng sinh từ vô thủy kiếp đến nay đều chấp Ngã (Ta) là thực có, cho nên mới lưu chuyển luân hồi, vạn kiếp không thể thoát ra, thật là đáng thương. Khi xưa, Lạt Ma Mạt Nhi Han (Mã Nhĩ Ba) dặn dò môn đồ của mình là Mật Lặc đi đến phía đông sông Hằng gặp Mật Đắc Lợi Han, cầu ông ấy dạy về đạo lý tất thảy pháp Không. Nhờ hiểu rõ đạo lý tất thảy pháp Không mà ba thân có thể đắc, đoạn tâm mới được”. (62-72~73)

Thế nhưng các thày Mật tông từ xưa đến nay kỳ thực vẫn chưa hề chứng được pháp Vô ngã, trên từ Mai Kỷ Ba, Tất Ngõa Ba, Nguyệt Xứng…, dưới đến A Để Hạp, Liên Hoa Sinh , Tông Khách Ba, Pháp vương Đạt Ma các đời…đến nay vẫn chẳng có lấy một người đắc pháp Vô ngã cả. Vì sao vậy? Vì những người đó đều coi xúc giác trong Lạc Không bất nhị, Lạc Không song vận của Song thân pháp và Tâm giác tri trong cảnh giới đó vô hình vô sắc là Không tính. Những người như Nguyệt Xứng, Tông Khách Ba, Đạt Lai Lạt Ma…đều cùng chấp bám cho rằng Tâm giác tri Lạc Minh vô niệm đó là pháp thường trụ bất hoại, tức là đều đọa vào trong Ngã kiến của Tâm ý thức, nhưng lại tự xưng rằng mình đã đoạn được Ngã kiến, Ngã chấp, chẳng có nghĩa lý thực sự nào đáng để nói cả. “Chứng lượng” của các thượng sư Mật tông đó đều được ghi chép trong các Mật tục, cho đến cả tương truyền bằng khẩu quyết đến nay vẫn không đứt đoạn, rõ ràng đã rơi vào “thường bất hoại Ngã” của thường kiến ngoại đạo mà lại tự xưng đã lìa, đã đoạn “Ngã kiến”, thực tế toàn là những kẻ hiểu sai về ý chỉ “Ngã Không” thực sự của Phật pháp.

Các thày Trung Quán của Hoàng giáo Mật tông (ví dụ như pháp sư Ấn Thuận, Đạt Lai Lạt Ma, Tông Khách Ba…) còn coi “tất thảy pháp Không đứng ngoài Như Lai Tạng” là Phật pháp cứu cánh nhất, rơi vào Đoạn diệt kiến và “tất thảy pháp Không vô nhân luận” (chi tiết xin xem biện chính trong các cuốn sách “Tà kiến và Phật pháp”, “Lăng Già kinh tường giải”, “Chân thực Như Lai Tạng”, “Ngã và Vô ngã” của tôi, ở đây không thuật lại nữa), thế nhưng lại không biết cái lý của “tất thảy pháp Không” là phải dựa vào “Uẩn Xứ Giới Hữu” mà có. Phải dựa vào pháp “Uẩn Xứ Giới Hữu” thì mới có cái đạo lý về tất thảy pháp Không. Cho nên, tất thảy pháp Không dựa vào các pháp Uẩn Xứ Giới Hữu mới được sinh ra, nó thuộc về Tam giới pháp của Hiện tượng giới, vì thế mà thuyết “tất thảy pháp Không” không phải là Phật pháp thực sự. Vì lý này chỉ là Thế tục đế mà người Nhị thừa tu chứng, nó không thể đề cập đến Thực tướng của Đệ nhất nghĩa.

Điều đáng thương là, thậm chí ngay cả Vô Ngã Không của Thế tục đế thuộc pháp Nhị thừa cơ bản nhất, các phái của Đông Mật và Mật tông Tây Tạng cũng không thể chứng được, thế mà lại luận về tu chứng của Phật Bồ Đề? Vì sao nói vậy? Vì các thày Đông Mật đều chưa chứng được Như Lai Tạng, cũng không hiểu hết về Thế tục đế thập bát giới Không tướng, đều đọa vào trong Tâm giác tri. Còn Mật tông Tây Tạng thì lại đều lấy Minh thể làm Thực tướng pháp, vọng tưởng cho rằng: Dựa vào Minh thể hư vọng do quán tưởng sinh ra là có thể tu thành Phật đạo mà chứng Thực tướng. Thế nhưng Minh thể thực tế chỉ là cảnh giới Nội tướng phần do vọng tưởng sinh ra, chỉ là pháp “tái y tha khởi tính” trong pháp y tha khởi tính, vì nó dựa vào quán tưởng của Tâm ý thức mà sinh ra, trong khi bản thân Ý thức lại là pháp y tha khởi tính[2].

Ở đây cũng nói Tâm giác tri tương ứng với dâm lạc trong Lạc Không song vận, Lạc Không bất nhị kỳ thực chính là tâm Ý thức y tha khởi tính, không phải là pháp biến thành Chân Như ở Phật địa lúc ở trạng thái Lạc Minh vô niệm. Cho dù Song thân pháp thực sự có thể tu thành Phật quả đi chăng nữa, thì Tâm giác tri lúc tu đến “Phật quả” vẫn chỉ là Ý thức mà thôi. Còn Thức thứ tám Vô Cấu thức ở Phật địa mới là pháp vốn dĩ đã tồn tại từ vô thủy kiếp đến nay, không phải là pháp do tâm Ý thức giác tri chuyển biến mà thành như Mật tông vẫn thường nói, vì Chân Như ở Phật địa là Bản trụ pháp, nó đồng thời đồng xứ với tâm Ý thức vận hành không ngừng nghỉ, không phải nhờ tu hành mà sau đó mới được sinh ra, cũng không phải vì sau khi diệt trừ tâm Ý thức giác tri thì mới bắt đầu có Tâm này.

Các tông phái của Mật tông Tây Tạng đều cùng coi Tâm giác tri Lạc Không song vận, Lạc Không bất nhị là pháp thường trụ bất hoại, tức là rơi vào trong pháp thường kiến ngoại đạo, cùng là một Tâm giống với Tâm giác tri “nhất niệm bất sinh và bất hoại” mà thường kiến ngoại đạo vẫn chủ trương. Vì thế mới nói rằng: các phái của Mật tông đều chưa từng chứng được Thế tục đế của pháp Nhị thừa, càng không hề chứng được Như Lai Tạng của pháp Đại thừa. Mật tông chưa từng chứng biết trí tuệ Bát Nhã thất trụ vị, nhưng lại dùng các loại danh tướng của Phật pháp, coi Minh điểm và Tâm giác tri là Thực tướng tâm, là Như Lai Tạng, cho nên những gì họ nói đều không thật, không thể tin được, những lời nói về chứng lượng của họ cũng đều thành lời hư vọng, đều phạm vào đại vọng ngữ nghiệp.

Mật tông lại dùng tâm tưởng “Không An bất phân, tất thảy pháp Không” mà hoàn toàn không chút nghi ngờ, rồi xưng như thế đã thành La Hán, không biết phải đoạn Ngã kiến, phải trừ Ngã chấp, mà tự cho rằng mình đã đoạn Ngã kiến, đã trừ Ngã chấp, hoang đường đến mức độ như vậy đó! Họ vốn dĩ thiếu sót tri kiến Phật pháp nghiêm trọng, đều rơi vào thường kiến, đoạn kiến của phàm phu, nhưng lại đem việc nói đúng theo pháp, tu đúng theo pháp, chứng đúng theo pháp của người tu hành bên Hiển tông hạ thấp xuống thành tu hành ở Nhân địa, là chứng lượng thô thiển; trong khi bản thân lại không biết các thày Mật tông đều hiểu sai về pháp của Hiển giáo, hoàn toàn không hiểu gì về “Nhị thừa, thông giáo giải thoát quả” của Hiển giáo, cũng hoàn toàn không hiểu gì về Phật Bồ Đề quả của Đại thừa Hiển giáo. Ví dụ thượng sư Mật tông nói thế này:

“Sau khi đắc đạo ảo thân, thì ảo hóa bắt đầu đến. Người tu pháp trước hết phải tu Khởi phần. Tu tốt Khởi phần thì mới bắt đầu tu công phu bước đầu của Chính phần. Sau khi tu thành công phu bước đầu thì mới tu ảo thân. Nếu có lòng nghi, thì là ảo thân bất thanh tịnh. Chỉ khi nghi tâm “Không An bất phân” không còn chút nào nữa đến, thân thể mình hoàn toàn mới là thân Phật, thanh tịnh giống như con cá mới ra khỏi biển, là thân này đó. Khi đó, nhất tâm tĩnh tọa, tất cả đều không hỏi han gì hết. Sau khi ngồi xuống cũng vẫn “tất thảy pháp Không”, giống với lúc ảo hóa. Phàm tất cả chúng sinh hữu tình, bất kể lớn nhỏ, đều coi là Phật hết, tức một con côn trùng nhỏ bé cũng nhìn nhận như là Hóa thân của Phật. Tất cả các đồ vật, bất luận to nhỏ đều coi là Đàn thành của Phật. Không được dứt bỏ thứ niệm tưởng này, dù chỉ là một khắc. Nếu người nào có thể nhất tâm không nghi như vậy, thì sẽ chẳng khác gì Phật cả. Người đó, trên phương diện đạo lý Hiển giáo gọi là La Hán, vì phiền não của anh ta đã trừ hết rồi. Còn trong Mật giáo, nghi tâm trừ được thì phiền não cũng theo đó mà bị diệt trừ. Trong Hiển giáo, sau khi đoạn trừ nghi tâm, thì vẫn còn 112 loại phiền não khác đợi trừ nốt, chỉ khi nào đoạn tận phiền não thì mới thành La Hán. “Căn Bản kinh” trong Tạng Kinh nói: Sau khi Kiến đạo đến, người đó liền thành thánh nhân, đoạn hết mọi nỗi khổ sinh tử”. (62-223~224)

Như vậy, Mật tông cho rằng người nào đạt “tất thảy pháp Không, Không An bất phân” bằng tư tưởng (suy nghĩ) mà không chút nghi ngờ thì lập tức trở thành thánh nhân, chứ không bắt tay vào bằng việc đoạn Ngã kiến, thường kiến, không đoạn trừ tà kiến “ly niệm linh tri thường trụ bất hoại”, không cần biết đến cái lý “ly niệm linh tri là hư vọng”. Người học cần nên biết rằng: tu chứng trong đạo Giải Thoát của Nhị thừa không phải là thực hiện ý niệm “tất thảy pháp Không” trong lòng lúc đả tọa là có thể chứng được quả Giải thoát; mà là trong lúc ngồi và tất cả các uy nghi khác, quan sát thật kỹ sự hư vọng của Tâm giác tri, quan sát Ý căn khắp nơi làm chủ là hư vọng, đoạn trừ Ngã kiến và Ngã chấp như thế mới có thể thành tựu quả Giải thoát. Còn nếu thực hiện ý niệm “tất thảy pháp Không, Không An bất phân” trong lúc đả tọa như Mật tông thì vẫn chỉ rơi vào trong cảnh giới Tâm ý thức, trước sau vẫn không hề đoạn Ngã kiến Ý thức – trước sau vẫn nhận định Tâm giác tri là Ngã thường trụ bất hoại, chính là rơi vào trong “thường kiến kiến” mà thường kiến ngoại đạo không thể đoạn được. Cái “Ngã kiến” trong thường kiến kiến còn chưa thể đoạn, huống hồ đòi đoạn Ngã chấp? Ngã kiến và Ngã chấp đều không đoạn, còn chưa chứng biết gì về cảnh giới phân chứng giải thoát của Sơ quả bên Hiển giáo mà nói có thể biết được quả Giải thoát của A La Hán, tuyệt không có cái lý ấy! Qua đoạn văn trên, có thể thấy Mật tông đều coi ý tưởng là thật, chứ không phải là tông giáo hiện quan và thực chứng Phật pháp.

Cho nên, các thày Trung Quán phái Ứng Thành như Nguyệt Xứng, Tông Khách Ba, Đạt Lai Lạt Ma các đời, pháp sư Ấn Thuận… đều cho rằng người có thể quan sát “tất thảy pháp Không” tức là người có chứng lượng, chính vì thế mà các học trò của Ấn Thuận đều một mực phủ nhận bình luận “pháp sư Ấn Thuận là học vấn tăng” của giới Phật giáo, mà cho rằng Ấn Thuận là người có chứng lượng Bát Nhã, chứ không phải chỉ có học vấn nghiên cứu mà thôi. Thế nhưng, các thày Trung Quán phái Ứng Thành như Ấn Thuận đều phủ định sự tồn tại của Thức thứ tám Như Lai Tạng, trong khi chân ý trong các kinh Bát Nhã đều phải dựa vào Thức thứ tám Như Lai Tạng mà nói. Các lý Trung Đạo trong Bát Nhã đều là thể tính Thức thứ tám của “Phi Tâm Tâm, Vô Tâm Tướng Tâm, Bất Niệm Tâm”: Bát Nhã lấy Tâm Thức thứ tám làm thể. Những người như Ấn Thuận đã phủ nhận Thức thứ tám thì hiển nhiên không thể nào hiểu được Bát Nhã. Người chưa chứng được Bát Nhã thì làm gì có chứng lượng mà nói?

Những người như Nguyệt Xứng, Tông Khách Ba, Đạt Lai Lạt Ma, Ấn Thuận…còn phủ nhận cả sự tồn tại của thức thứ bảy Ý căn, tức là thập bát giới mà Phật nói đã bị Ấn Thuận, Tông Khách Ba…sửa thành thập thất giới. Qua đó thử hỏi Ấn Thuận liệu có phải là “người có chứng lượng Bát Nhã” hãy không? Rõ được điều này rồi, thì cần gì đám học trò của ông ta phải ra mặt phủ nhận cái danh “học vấn tăng” để suy tôn địa vị của ông ta trong giới Phật giáo?

Lại nữa, Phật nói: “Ý thức đời trước không thể đến được đời này, Ý thức của đời này cũng không thể đến được đời sau”, là nói Ý thức chỉ là Tâm y tha khởi tính (dựa vào pháp khác mà có), nếu không có ngũ sắc căn được sinh ra hoàn hảo thì Như Lai Tạng cũng không thể sinh khởi Tâm Ý thức giác tri. Cho nên, Tâm giác tri chỉ có thể dựa vào ngũ sắc căn của đời này làm Câu hữu y (chỗ dựa) để được sinh ra, tuyệt đối không thể được sinh ra nếu lìa khỏi ngũ sắc căn Câu hữu y của đời này. Tâm Ý thức giác tri của đời này không thể nào dựa vào ngũ sắc căn của đời trước hoặc đời sau để sinh ra, vì ngũ sắc căn của đời trước thì đã bị hủy hoại, còn ngũ sắc căn của đời sau vẫn chưa được sinh ra. Cho nên, Tâm Ý thức giác tri không thể quán thông ba đời, không thể qua lại giữa ba đời được.

Ý thức không đến từ kiếp trước, cũng không đi đến kiếp sau, chỉ tồn tại trong một đời, như vậy thì năm thức đầu cũng đều phải theo Ý thức, không thể đi đến đời sau, cũng không thể đi từ đời trước đến đời này, cho nên tiền Lục thức đều chỉ có thể nương vào Như Lai Tạng mượn ngũ sắc căn vi tế của Trung âm thân do ngũ sắc căn đời này sinh ra để được hiện khởi ở giai đoạn Trung âm. Sau khi Trung âm thân đi thụ sinh thì tiền Lục thức đều bị diệt trừ mãi mãi, chỉ tồn tại ở một đời, mãi mãi không thể tái hiện.

Tông Khách Ba thì coi Minh điểm và “trí tuệ” Lạc Không của Song thân pháp là bản thể liên hệ nhân quả ba đời, cho nên ông ta không thừa nhận Thức thứ tám và thức thứ bảy mà Phật nói trước sau trong các kinh Tam chuyển pháp luân. Thế nhưng, thuyết đó của ông ta chỉ là hư vọng pháp, vì Minh điểm vẫn phải dựa vào Ý thức mới được sinh ra, “trí tuệ” Lạc Không của Song thân pháp cũng phải dựa vào Ý thức mà có, không thể tồn tại độc lập ngoài Ý thức được. Đã phải dựa vào Ý thức làm Câu hữu y, thì phải hiểu rằng đó không phải là pháp thường trụ bất hoại vốn có, vì bản thân Ý thức đã là pháp duyên khởi y tha khởi tính rồi. Còn Minh điểm và “trí tuệ” Lạc Không lại phải dựa vào Ý thức mà có, tức là pháp tái y tha khởi trong y tha khởi tính, thì sao có thể đảo lộn gốc ngọn thành lập ra pháp sở y của Tâm Ý thức, như thế chẳng phải là đảo lộn trắng đen, chỉ hươu nói ngựa hay sao? Pháp vô thường y tha khởi như thế, sao có thể xây dựng thành bản thể thường trụ bất hoại được? Sự điên đảo, ngu si và vô trí của Tông Khách Ba đâu phải chỉ nghiêm trọng, mà quả thực đã đến mức độ không thể tưởng tượng được nữa rồi.

Các thày Trung Quán phái Ứng Thành như Đạt Lai Lạt Ma, Ấn Thuận…dựa trên thường thức thực tế, biết rõ rằng Ý thức không thể đi lại xuyên qua ba đời, nhưng để phòng ngừa việc phủ định thức thứ bảy, Thức thứ tám dẫn đến sau khi chết sẽ trở thành đoạn diệt, để phòng ngừa bị chê cười “làm trái ngược quy luật nhân quả”, để phòng ngừa bị người khác bác bỏ nói họ là những người đoạn diệt kiến, cho nên sau khi phủ định thức thứ bảy tám mà Phật tuyên thuyết, họ đã xây dựng riêng một thuyết “Ý thức tế tâm”, chủ trương có một cái Tâm Ý thức nhỏ hoặc Tâm cực vi tế không thể biết, không thể chứng làm thứ nối liền nhân quả ba đời nhằm tránh rơi vào Đoạn diệt luận. Với sự thành lập đó, họ lại rơi vào trong Ý thức giới của Thập bát giới, vẫn không hề lìa khỏi pháp thường kiến của thường kiến ngoại đạo.

Ấn Thuận tuy nói: “Ý thức mà thêm thuyết không thể biết, không thể chứng thì đương nhiên là khác với thường kiến ngoại đạo”, thế nhưng trong các kinh Tứ A Hàm, khi nói về Ý thức, chỗ nào Phật cũng nói rằng: “Tất thảy mọi ý thức dù thô hay tế đều là do Ý căn và Pháp trần làm duyên sinh ra. Tất thảy mọi Ý thức thô tế đều có thể biết, có thể chứng”. Như thế là không có cái Ý thức tế (nhỏ bé) nào là không thể biết, không thể chứng, điều này khác xa với thuyết “Có Ý thức tế không thể biết, không thể chứng” của Ấn Thuận, Đạt Lai Lạt Ma, Tông Khách Ba…

Lại nữa, nếu như có Ý thức tế mà lại không thể biết, không thể chứng, coi đó là Tâm ba đời bất hoại, coi đó là Thức chủ thể nối liền nhân quả ba đời, thì cái Ý thức tế không thể biết, không thể chứng này phải là Tâm Thực Tướng, thì phải là Tâm có thể biết, có thể chứng mới đúng. Còn nếu đó không phải là Tâm Thực Tướng, thì sao có thể là Tâm nối liền, là Thức chủ thể của nhân quả ba đời? Còn nếu không phải là Tâm có thể chứng thì thuyết của Ấn Thuận sẽ thành vô nghĩa, vì (chúng sinh) không thể biết, không thể chứng. Mà như vậy thì Phật Thích Ca không phải là người đã chứng đạo nữa, vì vẫn còn có Ý thức tế không thể biết, không thể chứng mà Phật vẫn chưa chứng được, thì như thế không phải là bậc Nhất thiết trí, không phải là người đã thành Phật đạo nữa. Cho nên, cái lý luận hoang đường đó của Ấn Thuận và Tông Khách Ba liệu có thể chấp nhận là chính pháp của Phật giáo hay tuyệt đối không thể coi là chính pháp đây?

Nếu là như vậy, thì bản thân Ấn Thuận cũng không phải là người đã chứng ngộ Bát Nhã, vì pháp mà ông ta nói ra nhưng lại chưa hề thân chứng, tức vẫn còn chưa chứng được Ý thức tế không thể biết, không thể chứng; Mà như thế thì Ấn Thuận chỉ là kẻ hý luận, vì pháp mà Phật thuyết đều là pháp có thể chứng, trong khi pháp mà Ấn Thuận nói lại không thể chứng, chỉ là pháp tưởng tượng mà thôi; Như thế thì vô lượng Phật đời quá khứ đều chưa thành Phật, đều không phải là bậc trí “Nhất thiết trí”, vì họ vẫn chưa chứng được cái Tâm Ý thức tế không thể biết, không thể chứng mà Ấn Thuận nói. Là đúng, hay là sai đây? Những người có trí nên cùng suy xét!

Lại nữa, pháp không thể biết, không thể chứng liệu có phải là Phật pháp hay không? Đã không phải là Phật pháp, thì thuyết “không thể biết, không thể chứng” sẽ thành hý luận, vì đều chẳng liên quan gì đến đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề. Như vậy, Ấn Thuận đem pháp hý luận không thể biết, không thể chứng ra để tuyên thuyết, nói về Phật pháp, thì sao chúng đệ tử của ông ta lại có thể coi ông ta là “người có chứng lượng Bát Nhã” được?

Các loại sai lầm như thế đã chứng tỏ các thày Trung Quán phái Ứng Thành như Nguyệt Xứng, Tông Khách Ba, Đạt Lai Lạt Ma, Ấn Thuận…ai nấy đều là những kẻ suy đoán Phật pháp, không phải là những người thực chứng chân tu. Vì sao vậy? Vì La Hán Nhị thừa còn phải đích thân tự quan sát sự hư vọng của thức thứ bảy Ý căn (tuy nhiên Ý căn có thể đi từ đời trước đến đời này, lại có thể đi từ đời này đến đời sau), sau đó đoạn trừ Ngã chấp của Ý căn, chứ không chỉ có đoạn trừ Ngã kiến “Ý thức thường trụ bất hoại” mà thôi. Sự tu chứng Niết Bàn của Thanh Văn như thế đều được ghi chép đầy đủ trong các kinh Tứ A Hàm, đến nay vẫn có thể tra cứu. Thế mà các thày Trung Quán phái Ứng Thành như Ấn Thuận, Đạt Lai Lạt Ma…kia lại phủ định luôn cả Ý căn (thức thứ bảy) nói trong các kinh Tứ A Hàm, nói là không có thức thứ bảy, nói rằng đó là pháp được sáng tạo ra trong các kinh điển Đại thừa sau khi Phật nhập diệt. Sau đó, lại xây dựng nên thuyết Tâm Ý thức tế không thể biết, không thể chứng, thay thế cho Thức thứ tám Như Lai Tạng mà Phật thuyết trong các kinh Tứ A Hàm, coi đó là Thức chủ thể nối liền nhân quả ba đời. Như thế tức là đem Bản thể luận không thể biết, không thể chứng đó thay thế cho Bản thể luận có thể biết, có thể chứng mà Phật nói. Nói họ là những kẻ phá hoại chính pháp Phật giáo nghiêm trọng, ai bảo là không được?

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg