The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 9: Câu sinh trí do vọng tưởng bày đặt ra

 Tiết 9: Câu sinh trí do vọng tưởng bày đặt ra

Vọng tưởng về Câu sinh trí mà Mật tông nói như sau:

“Tịnh bất tịnh bản thể, tam tụng bán: Khi tham dục định ở đó, thứ tự tứ hỷ đều nhận rõ, tham lạc ban đầu chuyển tại đỉnh, nhị hỷ tại hầu tam hỷ tâm. Thức cũng tập hợp ở tề (rốn), khi hỏa tương hợp với nguyệt, trong mạch Hải loa thấy Câu sinh, đó là sự chứng biết trong sát na. Bát thức bất diệt từng cái sáng, vô biệt như thế phi phiền não, bởi đó gọi là trí tuệ thân, vì đều thành Chân Như thanh tịnh. Vô diệt vô lậu đủ Không tính, Câu sinh trí biến chủ nên tu.

Các hữu tình vào lúc tham (lúc ở cực khoái tình dục), Thức (chỉ A Lại Da Thức do quán tưởng – còn gọi là Minh điểm trong Trung mạch) đang ở chỗ nào đây? Đáp rằng: Phải như thứ tự tứ hỷ, Thức (Minh điểm do quán tưởng) có đầy đủ cùng nó, ban đầu nằm tại đỉnh (chỗ này nói mẫu thuẫn với phần trước là nằm ở Mật xứ), thứ hai tại hầu, thứ ba tại tâm, tứ tư tại tề (rốn), đến tề thì thức tập hợp được toàn bộ rồi. Chuyết hỏa và nguyệt dịch (tinh dịch nam và dâm dịch nữ) hỗn hợp ở trong mạch Hải loa (trộn lẫn ở trong mạch Hải loa cổ tử cung chỗ phần chót Trung mạch của bên nữ), lĩnh nạp câu sinh (lĩnh thụ lấy cái lạc xúc dâm lạc vốn có ngay từ lúc sinh ra), đó gọi là Câu sinh trí hỷ.

Về thời gian và bản thể, tụng rằng: ‘Đây là sự chứng biết trong sát na, Bát thức bất diệt từng cái sáng, vô biệt như thế phi phiền não’. Như trên đã nói: hiểu biết trong một sát na (trong sát na đầu tiên khi Câu sinh trí hiện khởi trong cơn cực khoái tình dục là có thể nhận biết ngay được cái hỷ này), đó là thời lượng của nó (đây chính là thời lượng của sự chứng biết), bản thể là sự hỗn hợp của Lạc Minh vô niệm, tuy không có cái bẩn phiền não (Mật tông cho rằng khi đang trụ trong cái lạc của cực khoái tình dục này thì không có phiền não nào hết), nhưng tất thảy chúng sinh hữu tình không thể nhận biết được. Sau khi Câu sinh trí diệt trong một sát na (sau khi cái sát na hiểu biết cảm nhận cực khoái tình dục qua đi), thì hy hỷ hiện tiền (cái hoan hỷ mà tâm an trú trong cảnh giới cực khoái tình dục kia có được gọi là ly hỷ ấy đã hiện tiền). Tuy nhiên Câu sinh trí hỷ là trí thể (tuy nhiên vẫn coi Câu sinh trí hỷ là trí thể của ly hỷ), ba cái hỷ khác đều không phải là trí (ba cái hỷ còn lại là Sơ hỷ, Thắng hỷ, Đệ tứ hỷ đều không phải là trí tuệ thực sự), có phân biệt tướng (vì đều có tướng phân biệt), cho nên Hỷ Kim Cương nói rằng: ‘Cái hỷ (ban đầu) là Sơ hỷ, Thắng hỷ là tăng thượng, Ly hỷ là ly hoan hỷ, còn lại là Câu sinh hỷ’. Cho nên nói Đệ tứ hỷ (lấy Câu sinh hỷ) là trí tuệ thân. Tám thức viên mãn bản thể (kỳ thực Mật tông xưa nay chưa từng có người nào chứng đủ được tám thức), khi nào đối trị tất thảy cấu bẩn xong, thì lúc đó có hiển hiện lượng để chứng biết rằng: tất thảy đều là đại lạc bản thể. Lời tụng không có cái nào diệt, bản thể Lục thức minh hiển, đó là Hóa thân. Cái tự tính vô lậu, cho nên không có tất thảy phiền não, đó là Báo thân viên mãn đại lạc. Cái mà có đủ Không bản thể, tức là Tự tính thân, tất cả mọi thời đều trở thành bản thể câu sinh phổ thông, gọi là cái chứng đắc của việc tu đó”. (34-434~435)

Vì tà kiến mà Tông Khách Ba coi thứ dâm lạc này là pháp Câu sinh, nhận định bản chất của thứ lạc này chính là bản thể của tất thảy vạn pháp, gọi nó là Chân thực pháp, Thực tế thường trụ, đồng thời nó đến tận vị lai tế (hết tương lai) cũng vẫn tùy ý vận hành liên tục không ngừng, vì thế mà ông ta xây dựng cái xúc chạm của dâm lạc này là bản thể của chư pháp, do đó mà phủ định thức thứ bảy, Thức thứ tám, không cần đến Thức thứ tám làm bản thể thường trụ vĩnh bất sinh diệt. Chính vì lẽ đó mà Tông Khách Ba nói thế này: “Cho nên, Lạc chân thực gọi là Tự thể câu sinh, hoặc gọi là Tự tính câu sinh, ý nghĩa là không đợi công dụng nhân duyên, tận vị lai tế tùy ý vận hành nối tiếp (chi tiết xem ở Tập 2)”. Bởi vậy mà các đại tông phái của Tây Mật đều không thể đứng ngoài hành môn Câu sinh lạc Song thân pháp này, cũng không thể đứng ngoài việc truy cầu Đệ tứ hỷ này, vì hành môn và lý luận của Mật tông đều xuất phát từ pháp môn dâm lạc này cả.

Người chứng được Câu sinh hỷ, theo Mật tông tức là đã thành tựu Phật đạo cứu cánh rồi. Mai Kỷ Ba, Tát Lạp Cáp, Nguyệt Xứng, A Để Hạp, Liên Hoa Sinh , Mã Nhĩ Ba, Mật Lặc Nhật Ba, Cương Ba Ba, Tông Khách Ba, Pháp vương Đạt Lai Lạt Ma các đời… cho đến tất cả những người “đã thành Phật đạo”, chưa thành Phật đạo của Mật tông thời nay đều có cùng một “chứng lượng” này, đều không thể đứng ngoài lý luận và quả chứng hành môn của Song thân pháp.

Như vậy ý đoạn trên là: Cái lạc dâm xúc sinh khởi khi đến sát na đầu tiên của cơn cực khoái tình dục, hiểu rõ rằng cái đó chính là hỷ lạc đến cùng lúc (con người) ra đời, tức là sự chứng biết ở sát na đầu tiên. Ví dụ như các thiếu nam, thiếu nữ chưa từng mây mưa với nhau, chưa từng ăn quả cấm, cho nên khi lần đầu tiên cảm nhận sự xúc chạm cọ sát của dâm lạc, không thể hiểu được rằng đó là cái khoái lạc có đồng thời từ lúc chào đời; Nhưng cho đến khi đạt cực khoái tình dục, hơi khởi sinh tâm phân biệt, thì tại sát na (tích tắc) đó hiểu rằng con người đã có chức năng khoái lạc này ngay từ lúc mới chào đời, nhờ thế mà hiểu được cái khoái lạc này từ lúc sinh ra vốn dĩ đã có, chính vì thế mà câu tụng này mới nói: “Đó chính là sự chứng biết ở sát na đầu tiên”.

Sau việc đó thì tại thời điểm sát na thứ hai, an trú trong cảnh giới này mà sinh hoan hỷ, cái hỷ này gọi là Ly hỷ. Nếu có thể nhận được sự chỉ dạy của thượng sư khác giới trong Mật giáo, tại thời điểm sau khi Câu sinh hỷ chứng được đó xuất hiện, trong lòng sinh khởi sự hoan hỷ mà không có tâm ưu phiền, cùng thượng sư thường trụ trong cơn dâm lạc cực khoái tình dục này, thì thành cái Hỷ ly hỷ. Chứng biết được thứ hỷ lạc như thế, đó chính là Hỷ ly hỷ trong Mật tông. Nếu người nào có thể nương dựa vào đó mà cùng thượng sư khác giới hoặc hành giả Mật tông khác giới tiến tu theo thứ tự, cuối cùng sẽ đạt đến trạng thái hỷ lạc lan khắp toàn thân cho đến tận đỉnh đầu, rồi có thể trụ mãi trong cảnh giới cao trào dâm lạc đó, đồng thời không để lậu rớt Minh điểm (xuất tinh) thì tức là người đã chứng được Câu sinh hỷ và Đệ tứ hỷ, tức là đã trở thành “bậc thánh” Mật tông đã thành tựu Phật đạo cứu cánh rồi.

Người chứng “thánh” trong Mật tông thường coi Câu sinh hỷ là Trí thể, cho nên Tông Khách Ba nói Đệ tứ hỷ (và Câu sinh hỷ) là Trí tuệ thân. Tức là lấy Tâm giác tri trộn lẫn ba thứ “Lạc, Minh, Vô niệm” làm bản thể của chư pháp, vì thế mới nói bản thể là sự tổng hợp của Lạc Minh vô niệm. Mật tông coi sự tu chứng của cảnh giới ý thức như thế, coi tà kiến hành môn ngoại đạo và chứng lượng tu hành như thế là sự chính tu (tu hành đúng đắn) trong Phật pháp, hoang đường đến cùng cực. Ấy thế mà vẫn có nhiều kẻ ngu si trong Hiển giáo, Mật giáo tin theo, không chút nghi ngờ.

Mật tông cho rằng: Nam nữ căn (bộ phận sinh dục) vốn có của con người đã có từ lúc sinh ra thì nghĩa là cũng có cái lạc xúc dâm lạc đi kèm, mà cái lạc xúc này không phải là do sau khi tu hành mới có, mà là thứ vốn dĩ có từ lúc chào đời rồi, cho nên gọi là pháp chân thực bất hoại. Còn Đệ tứ hỷ vốn dĩ cũng đã có công năng này từ lúc con người ra đời rồi, chứ không phải là thứ nhờ tu hành mà sau này mới xuất hiện, chẳng qua là chúng sinh không chứng không biết điều này, phải đợi khi được thượng sư Mật tông giải thích, hoằng truyền, chỉ đạo thì mới biết được. Nếu vốn dĩ đã có tính năng này rồi, thì tức là pháp Câu sinh (bẩm sinh ra đời đã có), cho nên khi trải qua quá trình tu học Mật pháp mà chứng được Đệ tứ hỷ, liền nói thứ hỷ này là Câu sinh hỷ. Muốn chứng đắc thứ hỷ này cần phải nhờ cậy vào sự đích thân truyền thụ của thượng sư Mật tông thì mới hiểu rõ được các loại chi tiết trong đó, cho nên đệ tử bắt buộc tuyệt đối phải tin theo ngôn hành của thượng sư, tuyệt đối phục tùng sự chỉ đạo của thượng sư.

Mà người tu học Mật pháp này còn buộc phải đem sắc thân của mình để đích thân tiếp xúc với thượng sư thì mới chứng được đầy đủ pháp của thượng sư, cho nên vào thời cơ thích hợp, hành giả Mật tông buộc phải tự đem sắc thân của mình cúng dường cho thượng sư. Nếu như thượng sư và mình lại cùng giới tính, thì phải tìm cho được người khác giới để làm dũng sĩ Minh Phi, lấy sắc thân đó cúng dường cho thượng sư, đợi thày vui vẻ, thì mới được truyền thụ quán đỉnh bí mật thứ ba – dùng sắc thân của mình giao phó cho thượng sư và chấp nhận chỉ đạo lâm sàng (chi tiết xem cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của Tông Khách Ba) hoặc gián tiếp nhờ vào người khác giới được mời đến để thượng sư chỉ đạo lâm sàng (tại giường luôn).

Nếu như người nào mà bản thân chưa từng đem một số lượng lớn “tiền, vàng” cúng dường cho thượng sư để lấy lòng thầy, thì bắt buộc phải là một bậc khôi ngô, xinh đẹp bẩm sinh, thêm vào đó còn phải hiểu ý phụng sự hầu hạ, để giành được sự vui vẻ tham ái của thượng sư khác giới, như thế thì mới được thượng sư truyền thụ quán đỉnh bí mật cho, thì mới được thượng sư đích thân chỉ đạo lâm sàng. Nếu như đệ tử Mật tông không thể cúng dường tiền tài số lượng lớn, bản thân cũng không phải là trang khôi ngô, kiều diễm gì hoặc dù có khôi ngô, kiều diễm nhưng lại không hiểu ý phụng sự để chiếm được lòng thương yêu của thượng sư khác giới, thì thường là phải đem con gái trẻ chưa chồng của mình cúng dường cho thượng sư, sau đó mới chiếm được lòng thượng sư, để mà chọn ngày đích thân truyền thụ quán đỉnh bí mật thứ ba và tiến hành chỉ đạo “lâm đàn (lâm sàng)” trong quán đỉnh thứ tư.

Sau khi truyền thụ quán đỉnh bí mật thứ ba, đã có thân mật xác thịt rồi, đồng thời cũng đã có lý luận và khái niệm tu hành Song thân pháp rồi, thì lại tìm thời cơ thích hợp để hợp tu Song thân pháp với thượng sư, để cầu chứng Đệ tứ hỷ, vì dù sao thì thượng sư vẫn có kinh nghiệm hơn đệ tử. Khi chứng được Đệ tứ hỷ, thượng sư sẽ chỉ đạo đệ tử làm thế nào quan sát được cái lý “Lạc Không bất nhị”, đồng thời chỉ đạo đệ tử Lạc Không song vận ra sao, thì mới có thể nhanh chóng chứng được “Phật quả” của Mật tông.

Khi chứng được Đệ tứ hỷ này, đã có thể hiểu rõ được làm thế nào để chứng đắc thứ hỷ lạc này, thì sẽ chứng được “trí tuệ” của thứ hỷ này. Thế nhưng công năng của Đệ tứ hỷ này vẫn là thứ vốn dĩ đã có từ lúc chào đời, chứ không phải nhờ tu mà có, cho nên chứng được trí tuệ của Đệ tứ hỷ này gọi là Câu sinh trí. Đệ tứ hỷ này chính là “Trí tuệ thân” mà các phái Mật tông vẫn thường nói, các Lạt Ma xuất gia như Tông Khách Ba của Hoàng giáo Tây Mật được phong là thanh tịnh tự tu cũng không thể đứng ngoài cảnh giới này. Ngẫm đọc những nội dung nói trong “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” do Tông Khách Ba biên soạn thì cũng có thể biết được quá nửa rồi. Thế nhưng, cái thứ chính tu của Mật pháp tức thân thành Phật vô thượng thù thắng này lại khác xa so với Trí tuệ thân được tu, được chứng trong Phật giáo, vì nó không phải là trí tuệ phát khởi dựa vào việc chứng đắc Như Lai Tạng, mà chỉ là Trí tuệ thân do Mật tông tự bày đặt ra mà thôi. Chính vì lẽ đó mà “Câu sinh hỷ, Câu sinh trí” mà Mật tông tuyên thuyết đều là vọng tưởng, không phải là Phật pháp.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35533


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg