The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 10: Tu chứng Phật quả và điều kiện tu học trong Mật tông

 Tiết 10: Tu chứng Phật quả và điều kiện tu học trong Mật tông

Mật tông tự nói về tu chứng quả vị Phật cứu cánh của họ như sau:
“Cứu cánh đạo: Bài tụng thứ hai: Sau đó thì diệt trừ nhục kế khí, khi đó gọi là đắc Phật Đà, cái lạc thượng hành kiến thập lục, thành tựu Không Bi vô phân biệt. Ba năm nửa tháng thanh tịnh, tức là thành tựu Trí tuệ thân, ba loại tướng khí, mạch, Minh điểm, lục chi cứu cánh tức là quả.

Thập nhị địa (đây là địa – quả vị thứ mười hai của Mật giáo, không phải là Thập nhị địa nói trong kinh Hiển giáo) cuối cùng lưu xuất xong, gọi là đắc Phật Đà, cũng gọi là quán đỉnh Đại quang minh, được Kim Cương a xà lê chủ quán đỉnh, cứu cánh thành tựu quả vị quán đỉnh mười một xuất thế. Cuốn “Thời Luân” nói rằng: có đủ mười và mười một quán đỉnh, như thế diệt trừ mười hai duyên khởi, khiến anh ta được thanh tịnh, từ dưới kiên cố mà lên, có mười sáu loại hoan hỷ, mười sáu không, mười sáu đại bi. Người có các quả mười sáu như thế, ngoại không đẳng ngũ, uẩn ngũ, sinh duyên bi ngũ, đại không đẳng ngũ, giới ngũ, pháp duyên bi ngũ, vô tán đẳng không ngũ, xứ ngũ, vô duyên bi ngũ, cái thứ mười sáu là thể tính không trí, trí tuệ giới, Phật đại bi, ba năm ba phương trí tuệ thanh tịnh cứu cánh. Tụng rằng: Đó là thành tựu trí tuệ thân, và thứ tự các loại trí tuệ, giống với thanh tịnh đắc phần trước. Thành tựu như trên thù thắng bất biến… (mà thành tựu Phật địa Tứ trí vân vân)”. (34-483~484)

Sự tu chứng “Phật địa” của Mật tông nói trên, chứng lượng đạt được hoàn toàn không liên quan gì đến Phật pháp, vì họ đều coi chứng lượng của xúc thụ dâm lạc là tu chứng Phật quả. Thế nhưng, người tu chứng Phật quả thực sự là tu chứng trong đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề. Đạo Giải Thoát thì buộc phải đoạn trừ Ngã kiến, mà pháp tu Lạc Minh vô niệm của Mật tông thì không những không thể đoạn được Ngã kiến mà ngược lại còn làm Ngã kiến tăng trưởng thêm, bởi vì dâm lạc bắt buộc phải dùng “Tâm giác tri Ngã” để cảm nhận nó, Câu sinh trí cũng buộc phải dựa vào dâm lạc mới có thể chứng được. Mà truy cầu Câu sinh lạc tức là cái tham lớn nhất trong Dục giới, trong khi Dục giới tham này bắt buộc phải dựa vào “Tâm giác tri Ngã” làm bản thể thì mới có thể chứng được. Lý luận và hành môn đạo Giải Thoát mà Mật tông tu hành như thế đều trái ngược với pháp môn tu hành và lý luận đạo Giải Thoát mà Phật Đà tuyên thuyết, hơn nữa còn hoàn toàn trái ngược – đi ngược đạo, đi ngược tâm để nhập vào đại tham dâm tham. Như thế mà nói có thể chứng, đã chứng quả giải thoát, thật đúng là bắt trạch ngọn đa. Việc hành trái đạo như thế, mà muốn cầu quả giải thoát, tuyệt đối không thể được!

Còn nội dung chủ yếu của đạo Phật Bồ Đề là dựa vào Như Lai Tạng làm chủ thể để tu chứng Tổng tướng trí, Biệt tướng trí và Nhất thiết Chủng trí của Bát Nhã. Thế nhưng, những thứ mà Mật tông nói như Nhân quán, Bình quán, quán đỉnh bí mật thứ ba (Huệ quán), quán đỉnh thứ tư (lần đầu thì hợp tu Song thân pháp với thượng sư để lĩnh hội lý luận và chỉ đạo thực tu), cho đến cùng thượng sư liên tục vào Mật đàn hợp tu Song thân pháp để Lạc Không song vận sau này, tất cả đều hoàn toàn không liên quan gì đến tu chứng Pháp Như Lai Tạng, cho nên căn bản không thể nào chứng nổi Như Lai Tạng. Đã không thể chứng được Như Lai Tạng thì tất nhiên không thể sinh khởi trí tuệ Tổng tướng Bát Nhã mà Phật dạy được, huống hồ có thể phát khởi trí tuệ Biệt tướng của Bát Nhã? Huống hồ có thể chứng đắc Nhất thiết Chủng trí tối cứu cánh trong trí tuệ Bát Nhã? Cho nên, pháp mà Mật tông tu hoàn toàn không liên quan gì đến đạo Phật Bồ Đề trong pháp căn bản của Phật giáo, về bản chất chỉ là pháp ngoại đạo thuần túy mà thôi.

Từ xưa đến nay, các thày Mật tông vẫn luôn chủ trương rằng: “Phải là người tu chứng thông đạt Hiển tông trước và phải tu chứng hoàn toàn thì mới có thể tu Mật”. Như thế tức là muốn chứng tỏ đạo Mật tông cao siêu hơn Hiển giáo. Tuy nhiên, các thày Mật tông xưa nay đều chưa từng chứng ngộ Như Lai Tạng, họ đều chưa đắc bất kỳ một loại Kiến đạo nào của pháp Tam thừa, dù chỉ là một phần trong Kiến đạo của Hiển tông, thì lấy đâu ra người có thể thông đạt pháp Tam thừa của Hiển giáo? Huống hồ là có đầy đủ tu chứng của Hiển tông? Cho nên, theo ý mà các thày Mật tông xưa nay chủ trương ở trên thì đều chẳng có ai có đủ tư cách để tu học Mật pháp cả. Những kẻ còn chưa có đủ tư cách tu học Mật pháp thì lấy tư cách gì để khinh Hiển sùng Mật mà tự đắc đây?

Lại nữa, ngoại đạo nếu sau khi đã chứng được định cảnh Sơ thiền, còn coi tham ái nam nữ ở Dục giới như giẻ rách, chỉ sợ lại đọa vào cảnh giới Dục giới, nên tuyệt đối không còn có lòng tham ái đó nữa rồi, thì sao các thày Mật tông lại dạy chúng đệ tử đều phải thủ chứng lấy thứ tham ái thô nặng nhất trong Dục giới – Đệ tứ hỷ dâm lạc? Không đúng chính lý chút nào!

Lại nữa, trí tuệ Bát Nhã mà các Bồ Tát chứng được đã vượt qua hẳn Tam giới ái, thậm chí đã chứng được Phật quả, thì đã đoạn được tập khí chủng tử vi tế nhất trong Phiền não chướng rồi, chứ không phải chỉ đoạn trừ được mỗi sự hiện hành mà thôi. Còn sự truy cầu dâm lạc lại là sự hiện hành thô nặng nhất trong Phiền não chướng, còn chưa phải là tập khí chủng tử tùy miên, thì sao Mật tông còn nói: “Phật của Hiển giáo vẫn còn buộc phải tu chứng pháp dâm lạc của “Dục giới ái” có tầng thứ thấp nhất trong Tam giới xong thì mới có thể thành Phật cứu cánh”? thì sao Báo thân Phật của Mật tông có chứng lượng Phật quả cao hơn Hiển giáo lại đều thị hiện tướng song thân nam nữ giao hợp thụ hưởng dâm lạc vậy? mà nói thứ dâm lạc ở Dục giới có tầng thứ thấp nhất trong Tam giới ấy là Đại Lạc cứu cánh của Báo thân Phật trong Mật tông? Điên đảo đến như vậy đó! Những tà kiến như thế, không phải chỉ các thượng sư Mật tông thông thường mới có, mà ngay cả Tông Khách Ba của Hoàng giáo được tôn xứng là thanh tịnh nhất cũng đọa lạc vào trong này, vì thế mà ông ta mới viết cuốn sách “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” để quảng truyền nó. Qua đó có thể thấy sự hoang đường của Mật tông Tây Tạng, mà các đại tông phái của họ đều giống nhau cả.

Cho nên, việc Mật tông nói buộc phải tu chứng Hiển giáo xong thì mới được tu học Mật pháp là hoàn toàn hoang đường đảo lộn, không phải là lời nói thật. Vì sao vậy? Vì các thày Mật tông xưa nay đều không biết, cũng chẳng thể tu nổi Phật pháp Tam thừa của Hiển giáo, dù chỉ là một thừa, huống hồ là có thể chứng được Phật quả Bồ Đề? Các thày Mật tông xưa nay đều đã hiểu sai về các pháp của Hiển giáo, đều không chứng biết được các pháp này, thì theo những gì họ nói, họ đều không có tư cách tu học Mật pháp tí nào. Như vậy thì các thày Mật tông đều có thể ngừng lại sự nghiệp hoằng dương Mật pháp được rồi, đều phải nhập vào Hiển giáo tu học pháp Tam thừa trước, đợi sau này khi tu chứng đầy đủ viên mãn pháp Hiển giáo và thành Phật xong đã thì mới lại tu Mật pháp, mới khớp với những gì họ nói, vì Mật pháp tu học như thế mới là chân tu thực chứng. Nếu người nào chưa tu viên mãn pháp Hiển giáo mà tu ngay Mật pháp, thì theo những gì họ nói, đều không thể thành tựu được.

Như vậy, chứng lượng “Phật pháp” mà các thày Mật tông xưa nay nói đều là pháp ngoại đạo, hoàn toàn không liên quan gì đến Phật pháp. Đã không thể biết gì về Kiến đạo của pháp Tam thừa, huống hồ có thể tu nó? Đã không thể tu nó, huống hồ có thể chứng nó? Đã chưa thể Kiến đạo, huống hồ có thể thành A La Hán? Đã chưa thành A La Hán, huống hồ có thể thành Phật đạo? Những người có trí tuệ đọc qua những đạo lý này là có thể biết ngay được lý luận và hành môn tu hành “Phật pháp” của các thày Mật tông và chứng lượng tu hành của họ rồi, không cần phải đợi mạt học[1] nói nhiều thêm nữa.

 

 


[1] Chú thích của người dịch: “Mạt học”  cách tự khiêm xưng của tác giảchỉ người học sau.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35534


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg