The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  CHƯƠNG 13: TỨC TĂNG HOÀI TRU Tiết 1: Giới thiệu vắn tắt về tức tăng hoài tru

 CHƯƠNG 13: TỨC TĂNG HOÀI TRU

 

Tiết 1: Giới thiệu vắn tắt về tức tăng hoài tru

Trong cuốn “Đại Nhật Kinh - Đại Tỳ Lô Giá Na thành Phật thần biến gia trình kinh” được các thượng sư Mật tông thời xưa trường kỳ sáng tác tập thể có tuyên thị về bốn loại pháp hộ ma như tức tăng hoài tru như sau: “…Hỏa Sơ ở thế gian, có con trai tên là Phạn Phạn, con trai là Tất Đát La, Phệ Thấp Bà Nại La; lại sinh Ha Phọc Nô, Hợp Tỳ Phọc Ha Na, Bá Thuyết Tam Tỵ Đổ và A Đạt Mạt Noa. Đứa con Bổn Thể Đa, Bổ Sắc Già Lộ Đào, các loại hỏa thiên đó, lần lượt được sinh ra. Lại nữa ở thai tạng, dùng mang-lộ-đa hỏa; sau hành dục tắm kỳ thân thể, buộc ha-mang-nang hỏa; dùng để tắm cho vợ, thì bằng mông-phách lô hỏa;… dùng khi bái nhật thiên, hợp vi-thệ-da hỏa; dùng khi bái nguyệt thiên, phải dùng nhĩ-địa hỏa; để đốt hết sạch, dùng a-mật-lật-đa hỏa; Khi muốn dập tai họa, dùng na-lỗ-noa hỏa; khi làm pháp tăng ích, dùng ngật-lật-đán-đa hỏa; khi hàng phục đối oán, nên dùng phẫn-nộ hỏa; khi chiêu nhiếp tài của, dùng ca-ma-nô hỏa;…Tùy theo hình sắc nó, mà làm thuốc men bằng ngang nó, để làm ngoại hộ ma, tùy ý thành Tất địa”. (“Đại Chính Tạng” 18-43)

“Tức” (dập tắt) ở đây là tiêu tai, “Tăng” ở đây là tăng ích cho bản thân, “Hoài” ở đây là gia tăng thâu nhiếp các loài tiền tài và để cho người khác giới hoan hỷ, “Tru” ở đây là hàng phục sự oán hận. Phàm là các pháp này, đều là pháp dùng để phục dịch thần lửa, đốt các loại đồ dùng để họ vui vẻ, sau đó sai khiến họ đi làm việc thay cho mình (con người). Pháp này thường thấy có trong Hiên giáo (Bái hỏa giáo), đồng thời coi đó là pháp tu hành chủ yếu. Việc hộ ma, phụng sự thần lửa của Mật tông phải chăng bắt nguồn từ Hiên giáo, vẫn còn phải đợi khảo chứng, nhưng đó cũng không phải nội dung mà tôi muốn biện chính, cho nên lược qua không nói.

Thời xưa có ngoại đạo thờ thần lửa, cho rằng thờ phụng hỏa thiên là pháp được sinh lên trời trong kiếp sau. Họ cho rằng lửa là các loại miệng của hỏa thiên, cho nên mới đem các loại thức ăn và đồ dùng hàng ngày ném vào trong lửa để cúng dường cho ông ta. Các ngoại đạo đó vì “buổi sáng kính lạy, sát sinh cúng tế, đốt loại gỗ thơm, hiến các đèn dầu, bốn việc như thế gọi là ngoại đạo thờ lửa”. Thời xưa, Thế Tôn đã từng độ cho ba anh em ngoại đạo thờ lửa ở bên dòng sông Ni Liên Thiền, chính là ba anh em A La Hán Đại Ca Diếp sau này đó. Theo lời của các nhà nguyên cứu Phật giáo thì: “Pháp hộ ma của Mật giáo không nghi ngờ gì nữa, chính là bắt nguồn từ ngoại đạo thờ thần lửa loại này”.

Thượng sư Trần Kiện Dân cũng nói thế này: “Phàm bốn loại sự nghiệp tức tăng hoài tru, một mặt điều phục các chúng sinh hữu tình thiện tâm, một mặt nhiếp phục quân ma ác tâm, đều từ Không Trí nhiếp quy vào một thể, từ bi tâm để diệt trừ phiền não, từ đại lực để nhổ bỏ ác căn; Thành Phật độ sinh, đều không thể thiếu” (34-77~78). Điều này ý nói Mật tông có bốn loại pháp này, cho nên cho rằng qua đó có thể tăng ích cho bản thân, đồng thời có thể hàng phục sự oán hận và ác ma. Cũng có ý nói rằng đó là những thứ cần thiết bắt buộc để thành Phật và độ chúng sinh.

Thượng sư Trần Kiện Dân lại nói thế này: “…Cho nên trong Mật tông, ngoại trừ lấy tín lực để nuôi thành chính hành, giới lực nuôi thành chính đức, định lực nuôi thành chính công, niệm lực nuôi thành chính trí, huệ lực nuôi thành chính giác ra, thì còn tu thêm khí công để nuôi thành thông lực, dùng giọt hồng bạch để nuôi thành nhiệt lực; cho đến có thể đốt trừ sự đen tối của chúng sinh, tăng trưởng quang minh cho chúng sinh, diệt trừ tà khí của quân ma. Phát dương Phật pháp thời mạt thế, đặc biệt không thể thiếu được chúng” (34-78).

Giáo sư Trần Ngọc Giao cũng nói trong sách của mình rằng: “Tức là tức tai, chỉ việc diệt trừ các tai họa chết đột ngột, bệnh tật, dịch bệnh, ma hại, truyền nhiễm…Tăng là tăng ích, chỉ việc tăng trưởng thọ mệnh, hình sắc (sức khỏe), uy quang, thế lực, công đức và những việc cầu mong khác. Hoài là nhiếp phục (vào lòng), hoài nhu. Tru là chỉ nghi thức trì chú cầu khấn quỷ thần giáng họa cho kẻ thù địch” (6-263)

Lại nữa, trước khi hợp tu Song thân pháp (Pháp Mật tu phụ mẫu vô nhị), cũng bắt buộc phải tu bốn pháp Tức Tăng Hoài Tru, cho nên Liên Hoa Sinh mới nói thế này: “Người thu phóng Thủ ấn bất biến quyết, tu bốn sự nghiệp, tu pháp Tức để để diệt tám loại sợ hãi, tu pháp Tăng để tăng ích phúc thọ tài bảo, tu pháp Hoài để nhiếp Không hành, tu pháp Tru để chế ngự các ma chướng. Không hành dũng sĩ mong muốn trong lòng như kiến bu chỗ thịt hôi; tất thảy Không Hành Mẫu nhìn như mẹ hiền, tất thảy chị em coi như người hầu. Từ tâm duyên bám, phóng bốn dòng ánh sáng…Nên ra sức mà thực hành, tất thảy như ý. Thân thành quang minh, nhiếp trì Tam giới, đặc biệt là người nữ kính yêu ta, cuối cùng là tu đại Không Lạc (pháp đại lạc trong pháp Mật tu phụ mẫu vô nhị song vận với ‘Không’)”(34-537~538).

Trước khi tu bốn pháp Tức Tăng Hoài Tru này thì phải làm lễ cúng lửa. Đồ cùng khi cúng lửa thì phải dùng màu sắc để phân biệt: “Cúng lửa trong bốn pháp Tức Tăng Hoài Tru: Tức tai dùng màu trắng, cho nên đồ cúng cho nó phải chọn nhiều thực phẩm, vải áo, hoa đều là màu trắng. Cúng lửa pháp Tăng thì dùng nhiều màu vàng. Cúng lửa trong pháp Hoài thì dùng nhiều màu đỏ. Cúng lửa trong pháp Tru thì dùng nhiều màu đen. Các đồ cúng khác màu ngoài trong đức, nói một hiểu mười” (34-40)

Tông Khách Ba chủ trương: Nếu người được mời là thiên giả có thể dựa vào được vật dụng cần đến như sau: “Mời năng y thiên: Nghênh thỉnh ư già (cúng dường) cần dùng, cho nên trước hết phải tu ư già. Các đồ đựng phải dùng vàng bạc, gỗ đá hoặc các đồ dùng khác. Tất thảy đồ cát tường là đồ đồng đỏ. Nếu tu Tức tai và thượng Tất địa, dùng đại mạch và sữa bò. Nếu tu Tăng ích và trung Tất địa thì phải dùng đến mè và bơ. Nếu tu hàng phục và hạ Tất địa thì dùng nước tiểu bò và gạo, hoặc huyết ư già. Quán thông tất cả các vật cát tường yết ma là dùng hoa gạo, sức dầu thơm, bạch hoa, cỏ tranh, mè (vừng), tịnh thủy, phối hợp bày ra. Hun để đốt hương, tụng những gì nói trước đây hoặc chú Minh vương, hoặc Tổng bộ tâm, hoặc chú tất thảy ma kiệt các bộ, hoặc tụng nghênh thỉnh chân ngôn bảy lần, gia trì ư già. Tiếp đến, đến lễ bái ở chỗ vẽ tượng trước mặt, đầu gối quỳ đất, các ngón tay giao bên trong, ngửa tay hướng lên trên, dựng hai ngón tay trỏ, lắc hai ngón tay cái kết thành ấn chiêu thỉnh. Tụng rằng: ‘Do tin Tam muội da, Thế Tôn mời mau đến, nhận cúng ư già này, mong nguyện yêu nhớ con’. Tiếp đến, cuối câu chú thì tụng thêm ‘ngạc hắc da hi’. Bưng đồ ư già, nếu là Phật bộ thì cúng hiến ngang trán. Hai bộ còn lại thì cúng hiến ngang ngực và rốn. Quán tưởng tự hành trí tôn giáng lâm. Chân ngôn dùng đến, “Kinh Tô Tất Địa” phẩm Nghênh thỉnh nói: Thỉnh thiên tử bằng chân ngôn Minh vương, thỉnh thiên nữ bằng chân ngôn Minh Phi, hoặc thỉnh bằng các chú khác...” (21-84, 85).

Tông Khách Ba lại nói rằng: “Sự nghiệp Tức tai, Tăng ích, Hàng phục như theo thứ tự của nó, tu ‘Như Lai bộ, Liên Hoa bộ, Kim Cương bộ’. Thượng phẩm trung phẩm hạ phẩm tất địa, cũng tu như vậy. Về Tức tai là nói có thể dập tắt các tai họa như bất đắc kỳ tử, bệnh tật, thời dịch, ma hại, truyền nhiễm. Về Tăng ích, nghĩa là có thể kéo dài thọ mệnh, hình sắc, uy quang, thế lực, công đức và những việc cầu mong khác. Về Hàng phục, còn gọi là sát trục. Thời gian tu hành vào nửa đầu tháng chạp, tháng tám, tháng giêng, tháng tư. Nên tu thượng phẩm tất địa và pháp Tức tai, thì tháng chạp không có sự cố tai nạn. Còn Tức tai thì phần lớn nên vào mùa thu, Tăng ích thì nên vào mùa đông, Hàng phục thì nên sau mùa xuân. Lại tu thành tựu trung-hạ (phẩm), tốt nhất là vào nửa cuối tháng của năm tháng đầu. Lại tu thượng trung hạ phẩm tất địa, và tu Tức tai, Tăng ích, Hàng phục, thời điểm chia ra như sau: Nên vào sáng sớm, nửa đêm và giữa ngày. Về pháp Tức tai, từ nửa đầu tháng từ mùng 1 đến ngày 15, Tăng ích thì từ giữa tháng đến giữa tháng, Hàng phục thì nên tu vào nửa cuối tháng... Về tướng ngồi, tu pháp Tức tai thì nên ngồi Liên hoa, tu pháp Tăng ích thì nên ngồi Cát tường, tu pháp Hàng phục thì nên chân đè chân. Mặt thì lần lượt hướng bắc, hướng đông, hướng nam” (21-108).

Tông Khách Ba lại bổ sung về pháp Tức Tăng thế này: “Về đồ đựng ư già, luận viết rằng: ‘Vàng bạc đồng đá gỗ, châu mẫu và ốc ngói, diệp bôn để rửa chân, rượu súc rửa đồ đựng ư già, hoặc ở trong đồ đựng khác’. Chính thống là có 9 loại, các thứ khác cũng được. Tổng tục tuy nói những thứ đó là đồ đựng ư già, nhưng thực ra cũng là đồ đựng nước khác. Việc này, Nan Thắng Nguyệt nói: ‘Những thứ này đều chia ư già cho nên gọi tên là ư già’. Đồ đựng bên trong hoặc chân ngôn, nếu là đồ để Tức tai thì dùng đại mạch, sữa bò, bạch hoa, cỏ tranh, mè, gạo rang và nước thơm màu trắng dùng để hòa cam lộ. Những thứ đó gọi là bảy đồ ư già. Tụng ‘Ông A Hồng” chân ngôn bộ chủ, bình cam lộ chú bảy lần hoặc 108 biến để gia trì. Nếu dùng để Tăng ích, thì dùng mè, bơ, hoàng hoa, cỏ tranh và nước thơm màu vàng để hòa cam lộ, như Tổng tục nói: ‘Tiếp đến rót nước thơm, người có trí tuệ dùng tay rắc, đốt hương khéo hun lên, tâm ý khéo trì tụng’ để làm trì tụng” (21-313).

Lại nữa, đồ cúng hộ ma, giờ giấc, phương hướng, pháp đặt bếp, theo như Thượng sư Trần Kiện Dân nói: “...các đồ cúng hộ ma, đồ cúng thông thường ngoài ngũ cốc, ngũ trù (lụa), ngũ bảo, ngũ hương, tam bạch, tam điềm (ngọt) ra, các đồ cúng đặc biệt khác được chuẩn bị riêng tùy theo tính chất bốn loại sự nghiệp khác nhau thì không nên cúng. Đó là nói về đồ cúng. Bốn pháp bằng nhau, bắt buộc lần lượt tiến hành ở bốn giai đoạn sáng sớm tờ mờ, sáng, chiều, tối. Nay đồng thời tiến hành thì bốn loại sự nghiệp không được nghiêng lệch một chút nào, để cầu hiệu quả nhanh, cho nên tất phải thực hiện riêng biệt. Đó là nói về mặt thời gian. Do tu Bản tôn khác nhau, cho nên phương hướng cũng khác nhau. Lại vì sự nghiệp khác nhau nên phương vị hướng đến cũng khác nhau. Đó là nói về mặt địa vị. Bốn loại cúng lửa, mỗi loại đều có pháp đặt bếp và hình thức của bếp riêng. Hình tròn, vuông, bán nguyệt, tam giác đều phải định hình dáng thuận theo đặc điểm của từng pháp. Đó là nói về kiểu bếp” (34-174-5).

Nói về đối tượng cúng như sau: “Bản tôn mình tu mỗi loại có một đặc tính riêng. Hoặc là thiên về tăng tài bảo, như Tỳ sa môn thiên vương cúng lửa; hoặc thiên về nhiếp trì, như cô-lỗ-cô-li (lộc cộc lộc cộc); hoặc thiên về Tức tai, như Lục độ mẫu; hoặc thiên về trừ bệnh, như Dược Sư Như Lai; hoặc thiên về chứng đức, như Thắng Lạc Kim Cương; hoặc thiên về sám tội, như Kim Cương Tát Đỏa; hoặc thiên về trừ ma, như Ma cáp yết ca la; hoặc thiên về gia trì, như Thích Ca Văn Phật” (34-174-1).

Mục đích tu pháp Hoài của nam hành giả là tăng sự dung hợp hơn nữa với Minh Phi (với nữ hành giả cũng cùng lý này), cho nên đối tượng cúng dường khi tu pháp Hoài chủ yếu là song thân “Phật” Thắng Lạc Kim Cương. Thế nhưng, Không Hành Mẫu cũng thuộc về đối tượng cần cúng của pháp Hoài, vì trong Mật pháp, Không Hành Mẫu cũng ngang hàng với “Phật”, bởi thế mà có ông thày nói rằng: “Nay pháp có bốn loại là Tức tai, Tăng ích, Hoài ái và Tru phục. Thượng Lạc Vương là Tru Kim Cương, mỗi vị Bản tôn đều có bốn pháp Tức Tăng Hoài Tru. Hoài Kim Cương dùng màu đỏ, Cổ Lỗ Cổ Lý cũng là Hoài Kim Cương. Phật trong pháp Hoài rất nhiều, mà Na Lạc Không Hành Mẫu cũng là một trong số đó. Người thành tựu bằng pháp Hoài thì đều thuộc dòng Hoài Kim Cương” (62-58). Ở đây ý nói Na Lạc Không Hành Mẫu trong pháp Hoài cũng là “hệ Phật” của Mật tông, ngang bằng với Phật. Chuyện “Phật nam, Phật nữ” mà Phật bài bác trong “Kinh Lăng Nghiêm” là chỉ về việc này.

Với người tu pháp Hoài, vật đem cúng phải dùng thứ để tượng trưng cho cơ quan sinh dục của hai giới nam nữ, và những thứ có thể tăng cường sức mạnh tình dục, đó mới là diệu phẩm tối thượng để cúng. Thượng sư Mật tông cho rằng những vật như thế có tác dụng trong việc tăng cường sức mạnh tình dục trong Song thân pháp: “Dùng hải sâm để thay chùy (đại diện cho dương vật), dùng con hàu lớn để thay liên (đại diện cho âm hộ), phải lấy những vật có hình thức tương tự, hơn nữa phải có tính chất âm dương tương tự, đưa vào cúng lửa trong pháp Hoài, chẳng phải là càng tuyệt diệu lắm ư! Con tôm khô loại lớn, nó vừa đỏ vừa cong, lại là loài cá (thủy tộc), ba điều kiện này đều hợp với nguyên tắc cúng lửa của pháp Hoài. Hợp hoan bì, bách hợp, câu đằng, dương khởi thạch, tên của chúng cũng hợp với ý chỉ của pháp Hoài... Tam tiên tửu cũng có thể đưa vào trong pháp Hoài” (34-175).

Trước khi muốn hợp tu Song thân pháp, cần nên tu cúng Mật trước. Cúng Mật còn gọi là cúng Giao Hợp: “Tự tính của Phật Phụ phương tiện hữu cảnh hiện phần và Tự tính của Phật Mẫu trí tuệ Không tính cảnh, hai thứ này song vận không khác biệt, là tất thảy giao hợp lớn vốn dĩ. Với vị đại lạc do tương hợp như thế sinh ra có thể khiến cho tất thảy đàn thành no đủ, nó có thể biết các tương hợp của Phật Phụ Phật Mẫu ai nấy song vận. Các đơn tôn thiên nữ thì chuyển hóa chủng tính ẩn hoặc thiên trượng Thủ ấn của Phật Phụ thành hòa lạc thù thắng của song vận, dần dần viên mãn đại lạc trí thượng giáng hạ cố, sau khi tâm trú ở trên đó, quán Không Lạc trí sinh ra liên tục, đồng thời trì Phật mạn ‘tùy tham vô biệt với tất thảy tôn’” (158-225).

Đó là dùng pháp quán tưởng, quán Phật Phụ và Phật Mẫu thụ lạc, đồng thời quán tưởng họ Lạc Không song vận mà sinh ra Phật mạn...Dựa vào sự quán tưởng này để khiến mình sinh ra ý nguyện muốn tu Song thân pháp, cũng khiến cho đối tượng muốn hợp tu Song thân pháp với mình có thể sinh mối thiện cảm với mình, mà nguyện phối hợp toàn lực. Khi thực hiện cúng Mật này, Dạ xoa, La sát, quỷ thần các nơi nhất định tương ứng việc cúng lửa này thụ cảm mà đến, hoặc thụ cảm mà khiến một người nữ (người nam) nào đó đến, hoàn thành việc tốt đẹp này. Những loài quỷ thần đó còn có thể thưởng thức ăn tinh khí dâm dịch trong quá trình nam nữ hành dâm này. Cho nên, trước khi muốn tu Song thân pháp, bắt buộc phải cúng dường “chư Phật Bồ Tát” (kỳ thực chỉ là hình dáng Phật Bồ Tát do bọn Dạ xoa biến hiện ra mà thôi). Mà vật cúng dường “chư Phật Bồ Tát” là lấy những vật có liên quan đến hành dâm và tăng cường sức mạnh tình dục là chính, vật cúng ở đây chính là Ngũ nhục và Ngũ cam lộ (Về chi tiết của Ngũ nhục và Ngũ cam lộ, xin xem trong Tập 1), thậm chí là quán tưởng “Phật Phụ Phật Mẫu” giao hợp hưởng lạc lúc cúng Mật...Việc cúng Giao Hợp này chính là thực hiện công tác chuẩn bị cho pháp hợp tu song thân, tức là pháp Hoài đó.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35540


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg