The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 5: Nội hộ ma

 Tiết 5: Nội hộ ma

Cuốn “Đại Nhật kinh” do tổ sư nhiều đời thời xưa của Mật tông sáng tác kết tập trường kỳ có nói rằng, hộ ma có hai loại: Nội hộ ma và ngoại hộ ma: “Hộ ma có hai loại, bao gồm nội và ngoại. Nghiệp sinh được giải thoát, lại có mầm giống sinh. Vì có thể đốt nghiệp, nên gọi nội hộ ma. Ngoài dùng có tam vị, tam vị tam trung trụ, thành tựu tam nghiệp đạo, thế gian thắng hộ ma. Nếu làm khác thế này, không hiểu nghiệp hộ ma, kẻ si không đắc quả, xả lìa chân ngôn trí” (“Đại Chính Tạng” Mật giáo bộ 18-32 hạ).

Cái gọi là “nội hộ ma” là đối ngược với nội dung trong Tiết 4, nghĩa là pháp thờ cúng lửa trong tu tứ pháp Tức, Tăng, Hoài, Tru được gọi là “ngoại hộ ma”: “Lại nữa, trong nội tâm, một tính mà có ba. Ba chốn hợp làm một, du kỳ nội hộ ma: Đại từ đại bi tâm, là chỉ pháp Tức tai. Nó kiêm cả phần hỷ, gọi là pháp Tăng ích. Phẫn nộ từ thai tạng, mà tạo các sự nghiệp. Lại nữa, này Bí Mật Chủ! Chỗ nói đến như thế, tùy sự nghiệp tương ứng, theo tín giải đốt thiêu” (“Đại Chính Tạng” Mật giáo bộ 18-43 hạ).

“…Nhãn nhĩ tỵ thiệt thân, cùng với ngữ ý nghiệp, đều từ tâm sinh khởi, nương dựa vào Tâm vương. Nhãn nhĩ…lần lượt sinh, và cảnh giới sắc thanh…, trí tuệ chưa sinh chướng, phong táo hỏa năng diệt, thiêu trừ vọng phân biệt, thành tịnh Bồ Đề tâm, đó là nội hộ ma, do các Bồ Tát nói” (“Đại Chính Tạng” Mật giáo bộ 18-44 thượng).

Cái gọi là “ngoại hộ ma” chính là bốn pháp Tức, Tăng, Hoài, Tru, đều là đốt cháy các vật bên ngoài để cúng “chư Phật Bồ Tát”, “các thiên chúng” và các quỷ thần, La sát, Dạ xoa…Mượn nhờ vào việc đốt các vật đó để cúng dường, rồi các quỷ thần thực hiện các công việc cho hành giả Mật tông, đó gọi là ngoại hộ ma. Như vậy, cái gọi là “nội hộ ma” là bắt chước “pháp thờ lửa” của ngoại hộ ma, làm quán tưởng từ chính tâm của hành giả Mật tông – tưởng bốn pháp Tức, Tăng, Hoài, Tru được thành tựu, rồi tưởng nghiệp chướng, vọng phân biệt…đều bị tiêu diệt, từ đó sinh trí tuệ, thành tựu tịnh Bồ Đề tâm.

Đây đúng là một thứ hư vọng tưởng. Vì sao vậy? Vì pháp quán tưởng chỉ là Nội tướng phần, tuyệt đối không phải là tâm tưởng (nghĩ) bản thân mình đại từ đại bi là có thể Tức tai (tiêu tai), mà bắt buộc phải thực sự hành động đem lại lợi ích cho các oán gia trái chủ bằng các sự việc thật, nhờ đó mà tiêu được oán thù đối với họ, sau đó thì tai họa mới bị tắt diệt. Hoặc đối với nhân của các nghiệp, phải thực hiện các việc để tiêu diệt nghiệp nhân đó, sau đó thì mới có thể tiêu tai, chứ không phải là dựa vào pháp quán tưởng làm hộ ma thì có thể tiêu tai được. Pháp Tức đã như vậy, thì các pháp Tăng, Hoài, Tru cũng y như vậy, đều không phải là dựa vào sự quán tưởng theo ý mình là có thể đạt được mục đích. Cho nên mới nói nội hộ ma của Mật tông chỉ là lối nói của kẻ đầy vọng tưởng.

Lại nữa, theo “Đại Tỳ Lô Giá Na Phật” trong cuốn “Đại Nhật kinh” nêu trên thì: Thông qua pháp quán tưởng để thiêu trừ các nghiệp thân khẩu ý đã tạo từ đời trước và đời này, đồng thời đốt cháy các phân biệt hư vọng. Đó cũng đều là hư vọng tưởng. Ở đây muốn nói giới tội đã phạm thì có thể diệt trừ được bằng pháp sám hối, nhưng nghiệp chủng vẫn là tính tội, bắt buộc phải chịu quả báo thì mới được diệt trừ. Hoặc trong các nghiệp hành thế gian, thực sự đem lại lợi ích cho các oán gia trái chủ - thực sự tiến hành các công việc bù đắp, bồi thường cho oán gia trái chủ, khiến họ không còn oán hận và sinh lòng hoan hỉ, thì sau đó mới có thể diệt được, chứ không phải như các thày Mật tông nói là thông qua pháp quán tưởng là có thể diệt trừ tội được.

Lại nữa, việc diệt trừ các phân biệt hư vọng, phải dựa vào việc thân chứng Nhị thừa Bồ Đề - hiện quan Thập bát giới Không tướng vô Ngã – mới có thể diệt được vọng phân biệt trong tu chứng đạo Giải Thoát. Lại phải dựa vào tu chứng của đạo Phật Bồ Đề – tức là đích thân chứng ngộ Thức thứ tám Như Lai Tạng để lĩnh hội Trung Đạo tính, Niết Bàn tính của nó – thì mới có thể sinh khởi trí tuệ Bát Nhã. Sau khi đã có được trí tuệ Bát Nhã thì mới bắt đầu diệt trừ được vọng phân biệt trong đạo Phật Bồ Đề. “Đại Tỳ Lô Giá Na Phật” trong cuốn “Đại Nhật kinh” của Mật tông thì nói: Muốn dựa nhờ vào quán tưởng “nội hộ ma” để diệt trừ các phân biệt hư vọng, sinh ra trí tuệ. Đó mới là những lời lẽ của kẻ vọng tưởng, tuyệt đối không phải là lời nói của Phật Đại Tỳ Lô Giá Na thật sự. Đó chỉ là do các thượng sư thời xưa của Mật tông sau khi sáng tác tập thể, đã giả danh làm lời nói của Đại Nhật Như Lai. Vì sao vậy? Vì nếu như có Hóa thân Phật xuất hiện ở thế gian, Ngài còn không nói những pháp hư vọng như thế, huống hồ là Tỳ Lô Giá Na Phật của Pháp thân Phật sao có thể thuyết pháp hư vọng này? Tuyệt đối không thể có cái lý ấy! Lại nữa, những gì mà Báo thân Phật nói, thuần là diệu pháp Nhất thiết Chủng trí – trí tuệ của tất cả các chủng tử có trong Như Lai Tạng – thuần chỉ nói về diệu pháp Nhất thiết Chủng trí như Duy Thức, còn không hề nói gì về các pháp của đạo Giải Thoát Nhị thừa và Trung Quán Bát Nhã Đại thừa, huống hồ là thuyết pháp vọng tưởng tà kiến quán tưởng diệt tội “nội hộ ma” này?

Những pháp vọng tưởng như thế đều xuất phát từ miệng của “Đại Tỳ Lô Giá Na Phật” của Mật tông, có thể thấy Đại Tỳ Lô Giá Na Phật trong “Đại Nhật kinh” đó tuyệt đối không phải là Đại Tỳ Lô Giá Na Phật thật sự, mà chỉ là vọng tưởng của chính các thày Mật tông, thác ngôn nói là lời của Tỳ Lô Giá Na Phật. Qua đây cũng có thể chứng minh “Đại Nhật kinh” đó là kinh giả, tuyệt đối không phải là kinh do chính kim khẩu của Phật nói ra. Vì sao vậy? Vì những gì mà “Đại Tỳ Lô Giá Na Phật” trong kinh đó nói đều chỉ là ý nghĩa bề ngoài của Duyên khởi tính không, chứ không thể hiểu được chân nghĩa của Duyên khởi tính không, vì “Đại Tỳ Lô Giá Na Phật” trong kinh đó thực tế không phải là người thực chứng được đạo Giải Thoát, bởi đã hiểu sai về chính nghĩa của đạo Giải Thoát.

Lại nữa, những gì mà “Đại Tỳ Lô Giá Na Phật” trong kinh đó nói cũng không hề chạm đến pháp Như Lai Tạng căn bản Đệ nhất nghĩa đế, mà lại nói Duyên khởi tính không là Không tính của Đệ nhất nghĩa đế. Nói như vậy, còn không bằng người mới Kiến đạo trong Đại thừa (người mới Minh tâm) nói, huống hồ có thể nói bằng Bồ Tát sơ địa đã thông đạt Chủng trí? Đã không biết, cũng không chứng được trí tuệ Bát Nhã mà người mới Kiến đạo trong Đại thừa chứng được, sao có thể tự cao suy tôn rằng đó là Mật pháp vô thượng đến hành giả Hiển giáo cũng không thể biết, không thể học? mà gọi đó là pháp do Tỳ Lô Giá Na Phật của Báo thân Phật thuyết? Thật là điên đảo đến cùng cực! Vì thế, pháp nội hộ ma của Mật tông không đáng tin, bởi lẽ về bản chất hoàn toàn chỉ là hư vọng tưởng mà thôi.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35544


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg