Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |
TẬP 4 CHƯƠNG 14: Tiết 1: Hiểu sai của Mật tông về Tứ gia hành -2 |
cho pháp ngoại đạo mà họ hoằng truyền; sau đó nói với mọi người rằng tu chứng như vậy mới là tu chứng Phật pháp. Nếu như có người tu hành trong Phật môn thật sự nói về tu chứng Tứ gia hành của mình, thì các hành giả Mật tông do không hiểu chân ý Phật pháp của Hiển giáo, bèn nói chứng lượng của những người tu hành bên Hiển giáo là thô thiển (nông cạn), không hiểu gì về Tứ gia hành thực sự, nói Tứ gia hành của Mật tông mới là Tứ gia hành chân chính. Nếu suy xét sự thật, thì chính các hành giả Mật tông lại là những người hiểu sai. Đã hiểu sai như vậy mà lại nói mình đã tu, đã chứng được pháp Hiển giáo, thì thật là sai lầm chồng chất. Những hiện tượng hiểu sai như thế tồn tại rất phổ biến giữa các thượng sư và người học Mật tông. Ví dụ trong cuốn “Đạo quả - Kim Cương cú kệ chú” của phái Tát Già nói rằng: “Đạo gia hành: Noãn (Chú thích gốc: Noãn phân biệt tiền hành, Noãn cửu giới tập nhiếp, Noãn Minh điểm giáng tập), Đỉnh (Chú thích gốc: ngoại, nội), Nhẫn, Thế đệ nhất pháp (Chú thích gốc: xuất luân hồi, xuất thế gian)… Nhâm nhất (9.1.), Noãn: đây là bốn loại đạo trong Tứ quán đỉnh, dựa vào đó để làm nhân tích tụ kiến giác thụ noãn tướng trí, cho nên trong tụng nói nó là “tư lương đạo”. Lại nữa, do tu tứ đạo mà sinh ra tứ đạo là “noãn trí của đạo gia hành”. Trong đó lại chia thành ba loại Noãn lớn vừa nhỏ: Quý nhất (10.1), là vọng kế phân biệt dễ sinh, cho nên gọi là “Noãn phân biệt tiền hành”, đó là Noãn nhỏ. Quý nhị (10.2), là vọng kế tam phân biệt khó sinh, cho nên gọi là “Noãn cửu giới tập nhiếp”, đó là Noãn vừa. Quý tam (10.3), vọng kế phân biệt cực khó sinh, cho nên gọi là “Minh điểm giáng tập”, đó là Noãn lớn. Về “Tập”: Trung tập tất thảy Noãn được sinh ra trong Giới, gọi là ‘trung’, cảnh tượng của nó kiên cố lại như con trùng có thể đoạn nội ngoại, đắc quyết không sinh ác thú (ác đạo), các kinh điển khác (kinh điển của Mật tông) cũng nói đó là trung “Nhẫn” vị. Nhâm nhị (9.2.)- “Đỉnh” vị có hai: Quý nhất (10.1), ngoại đỉnh: Tập nhiếp tâm khí vào đầu chót của hai mạch tinh huyết, hữu giới đỉnh bên ngoài thì là đầu trên nhất của thế đạo. Quý nhị (10.2), nội đỉnh: Nội đỉnh là Trung mạch đỉnh, tập nhiếp tâm khí vào chữ A của ngoại tướng, là đầu chót dưới của đạo xuất thế gian. Nhâm tam (9.3.)-“Nhẫn”: Như vậy, với Vô sinh pháp nhẫn trước đây chưa có, cái nhẫn mà không có sự sợ hãi trước nghĩa lý Không tính gọi là “nhẫn”. Nhâm tứ (9.4.)-“Thế đệ nhất pháp” có hai: Quý nhất (10.1), là Thế đệ nhất pháp trong pháp xuất khỏi luân hồi: tập nhiếp tâm khí vào Trung mạch, người điều khiển một phần phân biệt hai thủ Năng Sở là nó. Quý nhị (10.2), Thế đệ nhất pháp đều viên mãn như đạo pháp xuất thế gian: người viên mãn các đạo từ Sơ địa trở lên có thể xuất thế gian, đồng thời là người có thể sinh thân vô lậu (chứng được ‘trí tuệ duy trì tuyệt đối không xuất tinh trong cực khoái tình dục’ ở đời này), sinh cái nhân của tâm vô phân biệt (Lạc Không vô nhị, nhất tâm bất loại trong pháp tu song thân nói chi tiết trong Chương 9) mà không bị trở ngại” (61-432~437). Như đã nói ở trên, người đắc Vô sinh pháp nhẫn trong Mật tông là người có thể thường trụ trong cực khoái tình dục, giữ mãi không tiết lậu Minh điểm bằng tu Trung mạch Minh điểm, Bảo bình khí, Song thân pháp, như thế là vô sinh, là cái nhẫn đối với pháp vô sinh, tự gọi là đã chứng “Vô sinh pháp nhẫn”. Rồi họ lại đem cái “Vô sinh pháp nhẫn” này nói rằng đó là cái “nhẫn” trong Tứ gia hành, hoàn toàn không hiểu gì về sự khác biệt lớn giữa nhẫn trong Tứ gia hành và Vô sinh pháp nhẫn. Đồng thời, họ cũng hoàn toàn không biết gì về sự cách biệt lớn của hai loại tu chứng này về mặt quả vị. Như thế mà nói đó là pháp môn “tu hành quả địa” của Mật pháp vô thượng, hóa ra lại là hiểu nhầm về tu chứng “Phật pháp”, mà lại tự cao cho rằng hơn cả Hiển giáo. Lại như trong cuốn sách “Đại lạc quang minh – Đại thủ ấn của Kim Cương thừa” cũng nói thế này: “Tứ gia hành: Những công việc chuẩn bị này được thiết kế nhằm học lên Mật pháp sâu hơn, chúng có thể làm thanh tịnh nghiệp chướng ba nghiệp thân, khẩu, ý của hành giả, giúp cho việc tu đạo dễ đạt thành tựu. Chúng cũng có thể sinh ra một số tư lương để hành giả dễ hiểu những Mật pháp thâm sâu hơn. Quá trình tiêu trừ nghiệp chướng, tích lũy tư lương này thường được ví như nông dân cày ruộng, trồng trọt. Bước thứ nhất là phải nhặt bỏ đá sỏi, trừ cỏ dại; sau đó thì tưới nước, bón phân vân vân. Chính vì những công việc này nhằm bảo đảm có thu hoạch thành công sau này, cho nên tương tự vậy, những công việc chuẩn bị đó cũng là để đảm bảo tu tập Mật pháp được thành công. Xin được trình bày giản lược Tứ gia hành như sau: 1. Quy y, phát Bồ Đề tâm: Từ giờ trở thành Phật tử, hành giả Đại thừa; 2. Cúng Man đạt: Đây là phương pháp tích lũy tư lương phúc đức; 3. Quán tưởng Kim Cương tát đỏa và tụng niệm Bách tự minh: Đây là phương pháp làm thanh tịnh nghiệp chướng; 4. Pháp tương ứng thượng sư: Đây là phương pháp nhằm đạt được sự gia trì của thượng sư” (72-19). Tứ gia hành như vậy hoàn toàn không liên quan gì đến đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề của Phật pháp, thế mà nói có thể khiến cho hành giả Mật tông chứng được chứng lượng Phật pháp, thì có ý nghĩa gì? Lại nữa, các thày Mật tông luôn coi trọng pháp tương ứng thượng sư, thế nhưng bản thân các thày Mật tông lại chưa từng Kiến đạo, những gì họ truyền, tu và chứng đều không phải Phật pháp, hoàn toàn không hề có chứng lượng về mặt Phật pháp, vậy các đệ tử của họ chăm chỉ tu pháp tương ứng thượng sư thì có công đức tư lương gì để nói? Chỉ có thể tương ứng với thượng sư trong Song thân pháp mà thôi. Cuốn “Tạng Mật tu pháp bí điển” quyển một cũng nói rằng: “Pháp Tứ gia hành trong Mật thừa được gọi là Tiền hành cộng đạo. Đó là vì hai đạo Hiển Mật cùng tu, người tu Hiển Mật thực hiện lúc ban đầu” (119-105). Trong cuốn “Quy y phát tâm nghi quán hành thuật ký” do Tông Khách Ba biên tập cũng nói: “Hành nhân du già tu tập đại pháp Mật tông, trước hết phải tu học bốn loại Gia hành, thành tịnh nối tiếp, tích lũy tư lương, đạt được gia trì, sau đó mới dễ tương ứng. Tứ gia hành này là: Một, quy y phát tâm; Hai, Kim Cương tát đỏa Bách tự minh hoặc ba mươi lăm Phật sám (sám hối); Ba, cúng Mạn đà la; Bốn, thượng sư du già” (119-107). Nếu đã nói “Tứ gia hành” là cộng đạo (đạo tu chung) của Hiển Mật như vậy, lẽ ra Hiển Mật không hai, thì vì sao Tứ gia hành mà Mật tông nói lại khác xa với Hiển giáo đến mức độ nghiêm trọng thế này? Không đúng chính lý chút nào. Qua đó có thể thấy rằng Mật tông thực chất chỉ mượn danh tướng và giáo tướng của Phật giáo để rao giảng pháp ngoại đạo của mình, về bản chất họ chỉ là ngoại đạo ăn bám (đội lốt) Phật pháp bề ngoài hiện tướng Phật giáo, bên trong tu pháp ngoại đạo mà thôi. Lại còn có chuyện thượng sư Mật tông thời cận đại tự sáng tạo ra Tứ gia hành nữa, ví dụ Tưởng Cống Khang Sở khai thị rằng: “Tưởng Cống Nhân Ba Thiết trước tất cả mọi khai thị đều bắt đầu bằng ‘Chuyển tâm sang Tứ niệm xứ của Phật pháp’. Tứ niệm này, còn gọi là ‘Tứ cộng gia hành’, tức là: Một, nhân thân nan đắc (thân người khó được); Hai, cái chết vô thường; Ba, luân hồi tội lỗi; Bốn, nghiệp báo nhân quả. Nhân Ba Thiết đặc biệt nhấn mạnh những người sơ cơ nên tham khảo nhiều mặt về những dữ liệu kiểu này, đó là giáo nghĩa cơ bản nhất, cần phải trồng vào trong ruộng tâm chúng ta” (181-48). Phật pháp thậm thâm vi diệu, vốn dĩ không dễ tu chứng, vậy mà ngày nay Tưởng Cống Khang Sở lại còn tự ý sáng tác thêm Tứ gia hành, trộn lẫn với danh tướng Phật pháp, càng khiến cho người ta không biết bắt đầu từ đâu. Những kẻ giải thích danh tướng Phật pháp bằng vọng tưởng tự ý mình như thế trong Mật tông nhiều không kể xiết, đâu đâu cũng có. Những hành vi như vậy, các thượng sư Mật tông đời đời bắt chước, nên ngày càng chuyển biến nội dung thực chất của Phật pháp thành ngoại đạo pháp. Trước những hành vi chuyển dịch nội hàm của Phật giáo như thế, đại chúng thường lơ là, không phát giác được, cũng không hiểu được tầm quan trọng của việc này, cho nên dưới tình hình đó, Phật giáo Thiên Trúc đã dần dần bị tư tưởng phái Tính Lực ngoại đạo của Mật tông thay thế, còn “Phật giáo thời kỳ sau” của Thiên Trúc ngày nay về bản chất đã chuyển thành ngoại đạo pháp, Phật giáo thực sự đã bị diệt vong. Đó chính là “Phật giáo” của vương triều Bà La Thiên Trúc, chính là “Phật giáo vãn kỳ” mà các nhà nghiên cứu Phật giáo và pháp sư Ấn Thuận tán đồng Trung Quán phái Ứng Thành rao giảng. Kỳ thực, đó không phải là Phật giáo, mà chỉ là ngoại đạo khoác tấm áo Phật giáo bên ngoài mà thôi. “Phật giáo vãn kỳ” sau này bị quốc gia Hồi giáo tiêu diệt cũng chỉ là tà giáo của tư tưởng phái Tính Lực có vẻ bề ngoài là Phật giáo mà thôi. Cho nên, Phật giáo thực chất không phải là bị tiêu diệt bởi tay người Hồi giáo, mà trước đó hơn 100 năm đã bị tiêu diệt bởi tay Mật tông rồi. Trước khi quân đội Hồi giáo tiêu diệt vương triều Bà La, đã không còn tồn tại Phật giáo chân chính nữa, chỉ còn lại ngoại đạo Mật tông khoác tấm áo Phật giáo hoằng truyền tư tưởng phái Tính Lực ngoại đạo mà thôi. Phật giáo ở vương triều Bà La trước khi bị Hồi giáo tiêu diệt đã hoàn toàn biến mất khỏi Thiên Trúc rồi. Vì duyên cớ này, mới nói hành vi dần dần dịch chuyển pháp nghĩa Phật giáo của Mật tông là hành vi phá hoại Phật giáo nghiêm trọng. Hành vi như thế mà lại có thể nói là “hoằng dương Phật pháp”, thì ngựa đen cũng có thể nói thành hươu trắng được.
[1] Chú thích của người dịch: Cách đánh thứ tự đề mục trong tiếng Hán ngoại trừ Nhất (1), Nhị (2), Tam (3), Tứ (4)… còn dùng thêm Thiên can và Địa chi, ví dụ Giáp (1), Ất (2),…Tân (8), Nhâm (9), Quý (10)…
Lượt xem trang: 35547 |
Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |