Home » 文章分类_VN » CHÂN TƯỚNG MẬT TÔNG TÂY TẠNG |
KHÚC CA BI THƯƠNG CỦA KHÔNG HÀNH MẪU – VAI TRÒ VÀ VẬN MỆNH CỦA NGƯỜI NỮ TRONG PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN [1] -14 |
[81] Liên sư truyền miệng cho Phật Mẫu Di Hỉ Tha Gia cất ở hang núi, Dương Nô Ninh Nga Ta và Sinh Ki Ninh Ba lấy ra khỏi hang, Ngải Lịch Bì Ma Cung Tang dịch sang tiếng Anh, La Khải An và Hoàng Nghị Anh dịch sang tiếng Hán, “Truyền dạy Không Hành – khẩu truyền của Liên sư cho Tha Gia Mã”, NXB Mật Thừa (Đài Bắc), năm 1994, trang 116.
[82] Như chú thích trên, trang 197-198.
[83] Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 viết, Geshe Thupten Jinpa dịch sang tiếng Anh, Trần Cầm Phú dịch sang tiếng Trung, “Thế giới Phật giáo Tạng truyền – triết học và thực tiễn của Phật giáo Tây Tạng”, NXB Văn hóa Lập Tự (Đài Bắc), năm 2004, trang 97.
[84] Y học hiện đại đã chứng minh Ý thức của con người cần phải dựa vào đại não mới tồn tại được, nếu như não bộ vì sự cố tai nạn mà bị hủy hoại, thì người đó tuy có thể sống được, nhưng lại mất đi Ý thức, chỉ là còn nhịp tim và động tác phản ứng, phải dựa vào người khác chăm sóc và trợ giúp mới có thể duy trì sự sống. Qua đó có thể thấy, Ý thức không phải là “vận hành liên tục lâu dài”.
[85] “Kim Cương Du Già mẫu”, trang 194.
[86] Trần Binh viết, “Mật tông Phật gia tu trì mạch luân và minh điểm”. Link: http://www.360doc.com/content/09/1010/10/355483_7054281.shtml
[87] Nhóm Kiệt Thụy Mễ Hải Hoa biên soạn, Cận Văn Dĩnh dịch, “Vén màn bí mật của tâm trí”, NXB Chúng Sinh (Huyện Đài Bắc), năm 1996, trang 273, 280.
[88] Đạo sư Bình Thực viết, “A Hàm Chính Nghĩa” tập 1, NXB Chính Trí (Đài Bắc), tháng 6.2007, trang 319.
[89] Luận sư Nguyệt Xứng viết, pháp sư Pháp Tôn dịch, “Nhập trung luận giảng kí”, NXB Huệ Cự (Đài Bắc), năm 2002, trang 71.
[90] Đại sư Tông Khách Ba viết, pháp sư Pháp Tôn dịch, “Nhập trung luận thiện hiển mật ý sớ”, NXB Pháp Nhĩ (Đài Bắc), năm 1991, trang 224.
[91] Lời tựa trong “Nghiên cứu về luận thư và luận sư lấy Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ làm chủ” của Thích Ấn Thuận có nói: “Sự hưng khởi của Phật giáo Ấn Độ, phát triển rồi lại suy bại, giống như là đời người, từ nhi đồng đến thiếu niên tráng kiện đến suy lão. Lúc nhi đồng, sung mãn sức sống, là điều đáng xưng tán!...Tuổi già nhiều kinh nghiệm, tri thức phong phú, có chứng tỏ là chín chắn không? Cũng có thể chứng tỏ là tiến sát đến suy vong! Cho nên, tôi không nói ‘càng cổ càng chân’, cũng không đồng tình với kiến giải ‘càng về sau càng viên mãn, càng cứu cánh’.” Link: http://www.yinshun.org.tw/books/40/yinshun40-01.html
[92] “Đại Chính Tạng” sách 8, “Ma Ha Bát Nhã ba la mật đa kinh” quyển 8, “Tam thán phẩm, 30”, trang 279, dưới 15-27.
[93] “Đại Chính Tạng” sách 25, “Đại Trí Độ luận” quyển 44, “Cú nghĩa phẩm, 12”, trang 381, giữa 13-23.
[94] Việc chứng đắc Dục giới định, cần phải xả bỏ những sự thô nặng ở nhân gian thì mới phát khởi. Cảm giác mãnh liệt trong Lạc Không song vận sẽ lìa xa Dục giới định, ngăn cản sự phát khởi của Dục giới định.
[95] Tông Khách Ba viết, pháp sư Pháp Tôn dịch, “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, NXB Diệu Cát Tường (Đài Bắc), năm 1986, trang 400.
[96] Đẳng chí trong Phật giáo, như “A Tì Đạt Ma Đại Tì Bà Sa luận” quyển 152 nói: “Đáp: Đẳng chí có hai, một là khiến tâm bình đẳng; hai là khiến đại chủng bình đẳng. Vô tưởng, Diệt tận định tuy đoạn tâm bình đẳng, khiến không còn liên tục, mà dẫn đại chủng bình đẳng khiến hiện ra ở trước mặt, cho nên gọi là Đẳng chí.” “Đại Chính Tạng” sách 27, “A Tì Đạt Ma Đại Tì Bà Sa luận” quyển 152, trang 775, giữa 24-27. Ở hữu tâm (Ý thức) định, thân tâm bình đẳng an hòa, tâm đó lìa sự hôn trầm và điệu cử mà bình đẳng, gọi là Đẳng chí; Ở vô tâm (Ý thức) định, dựa vào đại chủng bình đẳng của thân mà gọi là Đẳng chí. Mật giáo lấy pháp dâm hợp song thân nam nữ làm chính tu của Phật pháp, nhầm coi việc nhất tâm bất loại lúc nam nữ đồng thời đạt đến cực khoái tình dục là Đẳng chí, nhầm coi hành dâm là chính tu hành của thiền định, những thứ này đều trái ngược với tu chứng “tứ thiền bát định” của ngoại đạo và Bồ Tát mà Phật nói, cũng trái ngược với “đạo Giải thoát” mà Phật nói, càng đi ngược với “đạo Phật Bồ Đề” mà Phật Đà tuyên thuyết. Do đó, về bản chất thì Mật tông chỉ mượn dùng các danh tướng (danh từ Phật giáo) mà thôi.
[97] “Đại Chính Tạng” sách 25, “Đại Trí Độ luận” quyển 57, “Bảo tháp hiệu lượng phẩm, 32”, trang 464, dưới 1-2.
[98] “Đại Chính Tạng” sách 25, “Đại Trí Độ luận” quyển 84, “Tam huệ phẩm, 70”, trang 649, giữa 18-23.
[99] Pháp sư Thánh Nghiêm, “Lịch sử Phật giáo Tây Tạng”, NXB Đông Sơ (Đài Bắc), năm 1969, trang 130-131.
[100] “Kim Cương Du Già mẫu”, trang 11.
[101] Nhà văn Trung Quốc Mã Kiến có một bộ tiểu thuyết tên là “Thắp sáng rêu lưỡi và sự trống rỗng của bạn”, viết câu chuyện về một “nữ Phật sống” bị “song thân pháp” cưỡng bức đến chết. Link: http://blog.udn.com/hgz88888/4586213 Tuy chỉ là tiểu thuyết, nhưng không phải là sự hư cấu vô căn cứ; Hoặc có lẽ bởi vì sự kiện xã hội như thế quá chấn động, nên mới mượn hình thức tiểu thuyết để làm giảm bớt căng thẳng. Bài viết này chỉ chú thích thêm ở đây, để làm chứng cứ phụ.
[102] Giới Tam muội da là giới Mật do Mật tông bày đặt ra nằm ngoài giới Phật, quy định các Lạt Ma mỗi ngày đều bắt buộc phải dựa mượn thân thể nữ đệ tử để hợp tu song thân pháp trong thời gian dài, hàng ngày đều phải trú trong cảnh giới dâm lạc Lạc Không song vận thời gian dài; Người nào làm trái với quy định này là phạm giới; Người nào tuân thủ quy định này, thì được Mật tông gọi là “trì giới thanh tịnh”.
[103] Tông Khách Ba viết, pháp sư Pháp Tôn dịch, “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, NXB Diệu Cát Tường (Đài Bắc), năm 1986, trang 290.
[104] Kim Cương Thượng sư Nặc Mỗ Khải Kham Bố Đạo Nhiên Ba La Bố Thương Tang Bố khẩu thuật, Chấn Hải Lô Dĩ Chiếu Dung Châu ghi chép, “Na Lạc lục pháp”, Thần Hy Văn Hóa (Đài Bắc), năm 1994, trang 290.
[105] Thố Đăng Da Ta truyền thụ, Thiện Huệ Pháp Nhật Hán dịch, “Cái lạc của chuyết hỏa”, Trung tâm phục vụ Từ Huệ Phật giáo (Hương Cảng), năm 2000, trang 39.
[106] Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 viết, Trịnh Chấn Hoàng dịch, “Đạo tu hành của Phật giáo Tây Tạng”, NXB Huệ Cự thành phố Đài Bắc tài đoàn pháp nhân (Đài Bắc), năm 2001, trang 81-82.
[107] Tông Khách Ba viết, pháp sư Pháp Tôn dịch, “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, NXB Diệu Cát Tường (Đài Bắc), năm 1986, trang 366-400. Về chủ trương của Phật giáo Tạng truyền đối với bốn loại quán đỉnh bí mật, các phái có sự khác nhau. Ở đây là dựa vào lời thuật của Tông Khách Ba trong “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”.
[108] Tông Khách Ba viết, pháp sư Pháp Tôn dịch, “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, NXB Diệu Cát Tường (Đài Bắc), năm 1986, trang 403-404.
[109] Du Già sĩ Trần Kiện Dân viết, “Khúc quăng trai toàn tập – Sự Ấn giáo thụ quyết vi” sách thứ 11, NXB Viên Minh (Tân Điếm), năm 2004. Về song thân pháp và mật ngữ có giảng giải chi tiết, trích yếu như sau: 1. Trí tuệ của Không Hành Mẫu (Tự tính tuệ của phụ nữ) không phải là chỉ ngũ trí của chư Phật, mà là chỉ 9 loại tư thế phong tao của phụ nữ (trang 104-105, 185). 2. Minh cấm hành tu chưa như pháp, xem bảng phạm giới luật: Trong bảng thuyết minh, nếu chưa tu song thân pháp theo 14 giới căn bản và 8 giới pháp thô tội với Minh Phi thì là phạm giới, mà 14 giới căn bản và 8 mông mẫu của Mật tông cũng có giới thiệu chi tiết (trang 186-190). 3. “Kim Cương Hợi Mẫu thậm thâm dẫn đạo” chương 9 (Sự nghiệp thủ ấn thân khác, cơ thể người nữ thực tế) chủng tính Minh Phi: 64 thức tham đạo luận/hạ môn đại lạc dẫn đạo sao bổn (trang 233-248). 4. Cách làm Sự nghiệp thủ ấn cụ thể và chi tiết: Chùy liên tương hợp hành tam quán, cách làm Sự nghiệp thủ ấn trong “quán đỉnh trí tuệ” phát ra tiếng kêu hoan hỉ, và âm thanh đút chọc, cưỡi vắt; Mật xứ tức là cơ quan sinh dục nam nữ (trang 254-255). 5. Kiểm điểm về 14 giới điều căn bản và 8 giới mông mẫu của Mật thừa: Nội hàm thực tế là tam quán, mật ý do song vận Sự nghiệp thủ ấn trong “quán đỉnh trí tuệ” mà chế giới (trang 255-261). 6. Cúng dường Mật giáo hộ pháp, tất phải dùng đến rượu thịt: Để tùy thuận đại lực quỷ, dược xoa (dạ xoa) vân vân chưa chứng Không tính; Tu Vô thượng Yoga mà thực hành Sự nghiệp thủ ấn, lúc bình thường thì buộc phải ăn thịt, chấp nhận sự quán đỉnh của Vô thượng Yoga bộ, đều buộc phải uống nước bảo bình, trong bình có để ngũ thịt, ngũ cam lộ (trang 261-265). Lại nữa, Trần Kiện Dân trong “Mật tông quán đỉnh luận” nói: Mục đích chủ yếu của đạo Kim Cương thừa ở cứu cánh lợi tha; thủ đoạn của nó là ở ngay đời này sớm thành Phật. Mà tất thảy Kim Cương Trì A xà lê đại sự nghiệp, nguyên lý cơ bản của nó là từ chân không sinh ra diệu hữu; công lực cơ bản của nó là ở sự tương ứng của ngũ trí, ngũ đại. Biện pháp cụ thể này, thâm hợp duyên khởi chân thực lực dụng, thì không hơn quá đại sự nghiệp mà Phụ Phật, Mẫu Phật song vận mà thành. Cho nên cần thiết phải sử dụng đến Minh Ấn thực thể. Bốn pháp tức, tăng, hoài, tru trong độ sinh, đều có thể bố trí đàn thành trong liên cung của Mẫu Phật, rồi lấy kim cương của Phụ Phật mà thực hiện. Cái “kim cương” này chính là ngọn cờ tiêu tương ứng với ngũ đại, ngũ trí đó. Sau khi tiến lên làm bình quán, khi quán đỉnh bằng Kim Cương a xà lê, thì đã khai mở Minh cấm hành, duy chỉ có cụ thể và chi tiết thôi. Pháp quán đỉnh thứ ba cho phép này, tu tập thành chứng, thì tất thực có tác dụng của nó. Cho nên không chỉ buộc phải dùng Minh Ấn trong Tu đạo vị, tức sau khi chứng quả cũng cần thiết phải dùng Minh Ấn; Không chỉ cần thiết dùng Minh Ấn trên sự nghiệp sinh thân, tức ở trong Niết Bàn vô trú, thọ dụng sự trí hòa hợp một vị, tuy đã từ thực thể chuyển thành Minh Ấn không sắc, thế nhưng Minh Ấn không sắc này và Minh Ấn thực thể trước Niết Bàn thuộc cùng một thể. Ví dụ, đại tổ sư Ma Ba lúc sinh tiền có 9 vị Minh Ấn thực thể, ông ấy trước khi Niết Bàn, 9 vị Minh Ấn thực thể này lần lượt hóa thành ánh sáng nhập vào cơ thể của Ma Ba, sau đó cơ thể ông ấy cũng hóa thành ánh sáng cầu vồng, Phụ Phật và Mẫu Phật không sắc hiển hiện ra trong quang minh tuy đã không còn là thực thể, mà không sắc này, nên biết rằng đó chính là thực thể này trước đó đấy. Đây chính là cái Lý của sự nghiệp. Link: http://www.nuona.com/nuona/Article_Show.asp?ArticleID=67
[110] Du Già sĩ Trần Kiện Dân viết, “Khúc quăng trai toàn tập” sách thứ 12, NXB Viên Minh (Tân Điếm), năm 1994, trang 245.
[111] Tông Khách Ba viết, pháp sư Pháp Tôn dịch, “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, NXB Diệu Cát Tường (Đài Bắc), năm 1986, trang 376. [Như “Đại Ấn không điểm” thứ 2 nói: “Đầu đẹp, mắt nhỏ dài, dung mạo diệu trang nghiêm, tuổi mười hai mười sáu, khó tìm thì hai mươi. Trên hai mươi tuổi là dư ấn, khiến Tất địa lìa xa. Lấy chị em gái hoặc con gái mình, hoặc lấy vợ cúng dường cho Sư trưởng”.] Nghĩa là nói: Những cô gái trên 20 tuổi chỉ có thể dùng trong thủ ấn khác ngoài Mật quán. Như Liên Hoa Sinh dùng gái 16 tuổi để tăng trưởng minh điểm, Tông Khách Ba tuyển dụng gái 15, 16 để làm Minh Phi, Cơ Mễ Nhã 14 tuổi đã trở thành Phật Mẫu rồi.
[112] Đóng vai diễn là một loại hành vi tình cảnh hư cấu và mô phỏng do “con người bày đặt”, vốn dĩ là có hiệu quả học tập và phản tỉnh nhất định, nhưng do vai diễn và vật diễn mà người nữ trong Tạng Mật đóng vai lại là thứ hư cấu và sai lầm, tuy giả mượn danh nghĩa và lý luận của “Phật pháp”, nhưng vĩnh viễn không thể đạt được, khiến cho những cô gái này rơi vào cạm bẫy đẹp đẽ, mặc cho người ta (người nam) sắp đặt, nhưng chỉ trở thành vật cúng (vật hi sinh) trong đàn tế của song thân pháp mà thôi. Ví dụ thực tế và nổi tiếng có rất nhiều, như Phật Mẫu Cơ Mễ Nhã, Tang Tang, Phật sống Trát Tây, June Campbell. Link: http://fk2009.pixnet.net/blog/post/28587659
[113] “Không Hành Dũng Phụ tán”: Kim Cương cứng thẳng nhập thâm mật, câu sinh diệu hỉ vượt ba đời; Phật Mẫu Không Lạc nhờ chứng đạt, tham độc bản tịnh y tôn hiển! Link: http://www.originalpurity.org/gurulin/b5files/f1784.html
[114] Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 viết, Geshe Thupten Jinpa dịch sang tiếng Anh, Trần Cầm Phú dịch sang tiếng Trung, “Thế giới Phật giáo Tạng truyền – triết học và thực tiễn của Phật giáo Tây Tạng”, NXB Văn hóa Lập Tự (Đài Bắc), năm 2004, trang 110.
[115] Trần Kiện Dân viết, “Khúc quăng trai toàn tập” sách thứ 2, NXB Viên Minh (Tân Điếm), năm 1994, trang 241.
[116] Quỹ Tôn giáo Tây Tạng Đạt Lai Lạt Ma ngày 20.1.2011 viết: “Trong quá trình tu học Mật pháp, nếu là tăng nhân thụ giới, thì nhất định phải giới luật thanh tịnh, giống như Tát Già Ban Trí Đạt trong ‘Tam luật minh biện luận’ chỉ ra rằng: Thành tựu của tu mật chính là kết quả của giữ lời thề và trì giới, cho nên mới nói rằng ‘trì giới là cái gốc của thành tựu’.” Bài “Bác bỏ quảng cáo không đúng sự thật của Quỹ Giáo dục Chính Giác”, link: http://www.tibet.org.tw/news_detail.php?news_id=1685 Chủ tịch Quỹ Tôn giáo Tây Tạng Đạt Lai Lạt Ma ông Đạt Ngõa Tài Nhân ngày 25.1.2011 lại viết: “Chứng tỏ, Phật giáo Ấn Độ quả thực có song tu, thời nhà Đường, vì lễ giáo Nho gia mà bài trừ sự phiên dịch kinh điển Mật tục, nhờ có truyền thừa ở Tây Tạng mà kéo dài đến ngày nay, những kinh điển này là có chung trong Phật giáo, chứ không phải riêng Phật giáo Tây Tạng mới có…. Pháp môn tu hành của Phật giáo Tạng truyền không nhấn mạnh song tu, tăng nhân thụ giới càng tuyệt đối không cho phép.” Bài “Phật giáo Tạng truyền: Kinh điển Phật giáo truyền thừa không nhấn mạnh song tu”, Link: http://www.tibet.org.tw/news_detail.php?news_id=1692 Những lời lẽ của Quỹ Tôn giáo Tây Tạng và ông Đạt Ngõa Tài Nhân đều là những ngôn từ né tránh sự thực. Mọi người đều biết rằng, giới Tam muội da của Mật tông coi “nam nữ song tu” là đại pháp căn bản, là bí mật không được tuyên thuyết ra ngoài. Tổ sư Mật giáo Tông Khách Ba quy định, người tu hành Vô thượng Yoga Tạng truyền trong hai (lần) sáu giờ hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, cả đời cho đến vô lượng đời tương lai đều không được rời khỏi pháp tu song thân một chút nào, nếu không sẽ là phạm giới. Khi người phát ngôn của Mật tông công khai tuyên bố “các Lạt Ma đều là những người giới hạnh thanh tịnh”, là “thanh tịnh giả” theo giới điều song thân pháp mà Mật tông tự bày ra. “Giới Tam muội da” của Phật giáo Tạng truyền không phải là tịnh giới mà Phật Đà chế định, mà là các Lạt Ma vì chuyên tu song thân pháp mà bày đặt ra để lừa mình lừa người đó.
|
Home » 文章分类_VN » CHÂN TƯỚNG MẬT TÔNG TÂY TẠNG |